0 likes | 10 Views
Ku1ecbch lu00e0 mu1ed9t trong nhu1eefng lou1ea1i hu00ecnh nghu1ec7 thuu1eadt biu1ec3u diu1ec5n u0111u01b0u1ee3c u0111u01b0a vu00e0o giu1ea3ng du1ea1y, hu1ecdc tu1eadp u1edf nhu00e0 tru01b0u1eddng Trung hu1ecdc cu01a1 su1edf vu00e0 Trung hu1ecdc phu1ed5 thu00f4ng, song vu0103n bu1ea3n ku1ecbch chu1ec9 chiu1ebfm tu1ef7 lu1ec7 ru1ea5t khiu00eam tu1ed1n so vu1edbi cu00e1c thu1ec3 lou1ea1i vu0103n bu1ea3n vu0103n hu1ecdc khu00e1c. Tu00e2m lu00fd phu1ed5 biu1ebfn cu1ee7a u0111 u1eddi su1ed1ng vu0103n hu1ecdc nhu00e0 tru01b0u1eddng lu00e0 u00edt quan tu00e2m u0111u1ebfn ku1ecbch bu1ea3n vu0103n hu1ecdc, du1ea1y hu1ecdc chay, du1ea1y hu1ecdc lu00fd thuyu1ebft suu00f4ng hou1eb7c tiu1ebfp cu1eadn vu1edbi ku1ecbch nhu01b0 vu1edbi vu0103n bu1ea3n khu00e1c. Kinh nghiu1ec7m thu01b0u1edfng thu1ee9c ku1ecbch thu01b0u1eddng lu00e0 hu1ea1n chu1ebf, tu00e0i liu1ec7u viu1ebft vu1ec1 ku1ecbch khu00f4ng nhiu1ec1u khi thiu1ebft bu1ecb hu1ed7 tru1ee3 cho tiu1ebft du1ea1y cu00f2n thiu1ebfu thu1ed1n nu00ean cu00e1c giu1edd hu1ecdc ku1ecbch bu1ea3n vu0103n hu1ecdc chu01b0a u0111u1ea1t tu1ed1i u01b0u yu00eau cu1ea7u cu1ea7n u0111u1ea1t.
E N D
SỞ GD&ĐT LÀO CAI TRƯỜNG THPT SỐ1 VĂN BÀN - - - - - - - - - - SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY HỌC VĂN BẢN KỊCH TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 - THPT THEO QUAN ĐIỂM TÍCH CỰC Họ và tên tác giả: Bùi Thu Thủy Chức vụ: TTCM Tổ chuyên môn: Ngữ văn Đơn vị công tác: Trường THPT số 1 Văn Bàn Văn Bàn, tháng 5 năm 2014 https://tophanoi.vn/
MỤC LỤC Đề mục Trang 3 5 5 11 14 19 21 22 Đặt vấn đề Giải quyết vấn đề I. Cơ sở lý luận II. Thực trạng dạy học kịch bản văn học trong nhà trường hiện nay III. Định hướng dạy học văn bản kịch trong chương trình ngữ văn 11 IV. Hiệu quả áp dụng SKKN Phần kết luận Giáo án thực nghiệm Danh mục tài liệu tham khảo 31 2 https://tophanoi.vn/
ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài So với các bộ môn học khác được học trong nhà trường, văn học là bộ môn vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Văn chương vốn có khả năng nhanh nhạy nhất trong việc đi vào tâm hồn bạn đọc, lắng đọng, kết tinh trong tâm hồn họ, không chỉ giúp họ hiểu cuộc đời, hiểu con người mà còn mang đến cho họ những bài học quí báu, những triết lí nhân sinh thế sự để đời. Môn Ngữ văn ở cấp Trung học phổ thông nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại bao gồm: Kiến thức về những tác phẩm tiêu biểu cho các thể loại cơ bản của văn học Việt Nam và một số tác phẩm, đoạn trích văn học nước ngoài, hình thành những tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự học và năng lực thực hành, ứng dụng. Quan trọng nhất, văn học bỗi dưỡng tình yêu tiếng việt, văn hoá, yêu thương quê hương đất nước, tinh thần dân chủ nhân văn…Nhưng để đạt được những mục tiêu dạy học đó, đứngtrướcmột tácphẩmvănchươngnóichung,giáoviênthậtkhóđịnhramộtcáchdạy chungbởimỗibài,mỗitácphẩmcónhữngnétđặcthùriêngcủaloạithể.Chính vìvậy,nócàngđòihỏingườithầyphảixácđịnhđượcloạithểcủatừngtác phẩm,từđóxácđịnhchomìnhmộtphươngpháp,biệnphápdạyhọcphùhợp. giảng dạy, học tập ở nhà trường Trung học cơ sở và Trunghọcphổthông, song vănbảnkịchchỉ chiếmtỷlệrấtkhiêmtốnsovớicác thể loại vănbảnvăn họckhác.Tâmlýphổbiếncủađờisốngvănhọcnhàtrườnglàítquantâm đếnkịchbảnvănhọc, dạy học chay, dạy học lý thuyết suông hoặc tiếp cận với kịch như với văn bản khác.Kinhnghiệmthưởngthứckịchthường là hạnchế, tàiliệuviếtvềkịchkhôngnhiều khi thiết bị hỗ trợ cho tiết dạy còn thiếu thốn nên các giờ học kịch bản văn học chưa đạt tối ưu yêu cầu cần đạt. Có khi học xong trích đoạn kịch, học sinh không phân biệt được sự khác nhau giữa kịch với một văn bản truyện. Thực tế này sẽ làm mất đi yêu cầu khoa học thực tiễn trong dạy học, sẽ giảm đi niềm yêu thích, hứng thú của thầy trò, không đạt mục tiêu dạy học nói chung.Nhưchúngtađãbiết,kịchđượcgiảngdạytrongnhà trườngkhôngphảivớitínhchấtlàmộtloạihìnhnghệthuật mà làtrên phươngdiệnvănhọc,nhưngkịchkhôngđơnthuầngiốngnhưtựsựbởinólà một bộ mônnghệthuật,nócómốiquanhệvớisânkhấunhưhìnhvới bóng.Việcthưởngthứcmộttácphẩmthuộcthểloạikịchkhônggiốngvới mọitácphẩmvănhọckhác.Dovậy,việcdạyhọckịchbảnvănhọcđã gặp không ít khó khăn so với các thể loại văn học khác.Thực tế là việc dạy học kịch vẫn xem nhẹ đặc trưng nghệ thuật kịch mà nặng về khai thác phần “xác” của kịch - phần văn bản, mới chỉ chú trọng khai thác nội dung mà Kịch là một trong những loại hình nghệ thuật biểu diễnđược đưa vào 3 https://tophanoi.vn/
chưa chú ý sự hoà kết giữa yếu tố văn học và sân khấu trong kịch. Những thực trạng nêu trên đã khiến việc dạy học kịch chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Trong thời đại đổi mới dạy học, với sự trăn trở, tìm tòi các phương pháp dạy học mới, rất nhiều giáo viên đã mạnh dạn đề xuất những cách làm hay, những sáng kiến tốt để quá trình dạy học đạt mục tiêu cao nhất. Và bản thân tôi nhận thấy cần xem xét việc dạy học kịch bản văn học một cách khoa học và tích cực, vừa đảm bảo yêu cầu về đặc trưng thể loại vừa khiến cho bài học tạo được hứng thú với học trò, bởiđa số các đoạn trích kịch được dạy học trong chương trình THPT đều rất giàu triết lí nhân sinh. Vì vậy, tôi chọn đề tài SKKN “Dạy học văn bảnkịch trong Chương trình Ngữ văn 11- THPT theo quan điểm tích cực”, mong muốn chia sẻ một vài kinh nghiệm với bạn bè đồng nghiệp, cùng vượt qua thực tế dạy học kịch bản văn học hiện nay.Và quan trọng nhất, qua đề tài này và qua việc đọc - hiểu đoạn trích kịch đúng với đặc trưng thể loại, phù hợp yêu cầu đổi mới dạy học bộ môn, người viết mong muốn các em học sinh có cái nhìn chân thật, cách sống đúng đắn, kiếm tìm những giá trị vững bền để hoànthiện nhân cách, vươn tới chân - thiện - mĩ. II. Tác dụng của đề tài: cho học sinh nói chung và học sinh trường THPT số1 Văn Bàn nói riêng. Giúp học sinh đạt yêu cầu Chuẩn kiến thức kĩnăng bài học một cách nhẹ nhàng thông qua những hình thức tích cực song vẫn đảm bảo quan điểm dạy học theo đặc trưng thể loại kịch. Góp phần nâng cao chất lượng học tập, tạo hứng thú học tập bộ môn Ngữvăn môn học Ngữ văn của học sinh trong nhà trường hiện nay. Từ đó tạo điều kiện cho giáo viên hứng khởi hơn trong những giờ dạy văn bản kịch. Góp phần giải quyết tình trạng lười học, chán học và tâm lí thờơ, xa lạ với giả, tác phẩm, bổ sung vào kiến thức bồi dưỡng chuyên môn giảng dạy, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, giáo dục học sinh. Tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu vềphương pháp dạy học văn, kiến thức về tác học với bạn bèđồng nghiệp. Chia sẻ, thể nghiệm những cách làm có tính chất phát hiện trong thực tiễn dạy 4 https://tophanoi.vn/
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận 1. Vài nét về kịch và đặc trưng của kịch. 1.1.Về khái niệm kịch Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” Nhà xuất bản giáo dục 2004 ( T167–168) thuật ngữ kịch được dùng theo hai cấp độ. *Ở cấp độ loại hình: Kịch là một trong 3 phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu, vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Song nói đến kịch là phải đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ, lời nói ( Riêng kịch câm thì không diễn tả bằng lời). Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở mang tính nhân loại (như giữa thiện và ác, cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực...) Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng nhiều kịch tính, tức là những sự căng thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân vật. Phần lớn kịch đượcxây dựng trên hành độngbên ngoài với những diễn biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại của các nhân vật. Tuy nhiên, cũng có hành động bên trong, qua đó nhân vật chủ yếu là suy ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng. Trong kịch, những lời phát biều của các nhân vật (Trong đối thoại hoặc độc thoại) nói lên hành động, ý chí và sự tự khám phá tích cực của họ có một ý nghĩa quyết định. Còn những lời trần thuật (Câu chuyện kể của nhân vật về những điều đã qua, sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác giả trong kịch bản) chỉ đóng vai thứ yếu và nhiều khi không cần đến. * Về mặt kết cấu: Vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra sự trùng khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch đồng thời làm cho cái được trình diễn mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thế kỷ khác nhau, mối quan hệ giữa ba yếu tố: Thời gian, địa điểm, hành động trong kết cấu của kịch không ngừng thay đổi tuỳ theo quan niệm của người sáng tạo và quy mô, tầm vóc của những sự kiện biến cố được phản ánh. 5 https://tophanoi.vn/
Trên cấp độ loại hình, kịch bao gồm nhiều thể loại: Bi kịch, hài kịch, chính kịch, cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau. * Ở cấp độ thể loại: Là một khái niệm kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học-sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch cũng gọi là chính kịch (hoặc kịch dram). Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải là cười nhạo, chế diễu các thói hư tật xấu mà là mô tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống với bi kịch, kịch chú trọng tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó cũng không căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể giải quyết được ổn thoả. Còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi thường. Kịch hình thành như một thể loại vào nửa sau thế kỷ XVIII qua sáng tác của các nhà khai sáng ở Pháp và Đức như Đi-đơ-rô (1713-1784), Bô-méc–se (1732-1799), G.E. Let xing (1729-1781). Nó hướng về những lợi ích tinh thần đạo đức, về lý tưởng của các lực lượng dân chủ tiến bộ đương thời. Trong quá trình phát triển của kịch, tính kịch bên trong của nó ngày càng cô đọng, dồn nén hơn. Nó cũng tiếp nhận những thủ pháp nghệ thuật, những phương tiện biểu đạt của các thể loại văn học sân khấu khác như bi hài kịch, kịch hề... để tăng thêm sức hấp dẫn và tác động nghệ thuật của nó đối với công chúng. Ở Việt Nam kịch ra đời vào những năm 20 của thế kỷ XX với những sáng tác như “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long, “Kim Tiền” của Vi Huyền Đắc... Từ sau Cách mạng tháng Tám, kịch ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn học - sân khấu và xã hội ở nước ta. 1.2. Đặc trưng của kịch 1.2.1. Xung đột kịch Do tính chất loại biệt của sự phản ánh, kịch lấy xung đột làm nội dung phản ánh. Nghệ thuật kịch bao giờ cũng phản ánh cuộc sống trong một quá trình nhất định, ở trạng thái khách quan, dưới dạng trực tiếp, cụ thể sinh động như đang diễn ra trước mắt người xem. Nó hoàn toàn khác hẳn với hội hoạ, điêu khắc, chỉ phản ánh cuộc sống tập trung trong một khoảnh khắc nhất định; nó cũng không giống với âm nhạc và thơ trữ tình lấy việc phản ánh tâm trạng, tình cảm của con người trước một sự kiện nào đó làm nội dung chủ yếu. Chính tính chất đặc biệt ấy buộc nghệ thuật kịch phải chọn những chất liệu có tính chất động làm cơ sở cho nội dung kịch, nghĩa là nó phải phản ánh cuộc sống trong sự vận động của nó. Mà đã nói tới vận động là không thể không nói tới xung đột. 6 https://tophanoi.vn/
Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà viết kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất. Pha-đê-ép đã từng khẳng định: “Xung đột là cơ sở của kịch”. Thực tế trong sự vận động của hình tượng thơ cũng có bộc lộ mâu thuẫn giữa những trạng thái tình cảm khác biệt của cảm xúc: Vui và buồn, hạnh phúc và đau khổ. Trong các tác phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, yếu tố mâu thuẫn tồn tại ngay trong sự vận động của cốt truyện và trong sự phát triển của các tính cách nhân vật. Với kịch, yếu tố xung đột mang một sắc thái thẩm mỹ khác. Nhà viết kịch hiện đại Xô Viết Ác-bu-dốp đã cho rằng: “Trong kịch không có những yếu tố tuỳ hứng mà người nghệ sĩ có quyền dùng khi điều khiển số phận những con người trong các tiểu thuyết và truyện. ở đây có một khuôn khổ rất chặt chẽ, không có thì giờ để mạn đàm, giải thích, luận bàn”. Sự khác biệt ấy chính là tính chất tập trung cao độ của sự xung đột kịch, sự chi phối trực tiếp đến cấu trúc tác phẩm, đến nhịp độ vận động dồn dập khác thường của cốt truyện. Xung đột là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch nhằm xác lập lên những quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu của tác phẩm kịch. Thiếu xung đột, tác phẩm kịch sẽ mất đi đặc trưng cơ bản đầu tiên của thể loại, sẽ là những “vở kịch tồi”. Vì vậy người viết kịch phải tạo được những xung đột mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, tính khái quát lớn lao nhưng phải hết sức chân thực, nghĩa là xung đột mang tính điển hình hoá. Thiếu ý nghĩa điển hình, tác phẩm kịch chỉ là sự mô phỏng những mâu thuẫn vụn vặt, tầm thường của đời sống. Thiếu ý nghĩa chân thực, tác phẩm kịch chỉ là sự giả tạo, là những dòng lý thuyết suông. Công chúng tìm đến với kịch là tìm đến một sự đồng cảm hoặc phản bác đối với tác giả trước những vấn đề quan trọng của đời sống. Nghệ thuật kịch luôn là diễn đàn tư tưởng của cuộc sống, là mối giao cảm sâu xa giữa tác giả và khán giả. Nói tới xung đột kịch ta cần chú ý đến vai trò tư tưởng của người viết. Phản ánh những xung đột trong đời sống, người viết muốn gửi gắm một ý nghĩa tư tưởng nào đó tới khán giả, như Pô-gô-đin–nhà viết kịch Xô Viết nổi tiếng, khi ông nói tới mối quan hệ giữa xung đột và tư tưởng:“Xung đột là điều kiện quan trọng đầu tiên của tác phẩm, nó mang lại cho tác phẩm kịch sự sống và sự vận động. Nhưng xung đột bao giờ cũng phụ thuộc vào một cái cao nhất và cũng là linh hồn của nó, đó là tư tưởng chủ đề của của tác phẩm”. Mối quan hệ giữa hai yếu tố này là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, nhưng tư tưởng chủ đề là cái gốc, có tính chất quyết định. 1.2.2. Hành động kịch Theo Arixtốt “Hành động là đặc trưng của kịch”. Nếu xung đột được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm, thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận 7 https://tophanoi.vn/
hành của tác phẩm. Trong mối giao lưu đó, xung đột là nơi quy tụ, chọn lọc và tổ chức hành động kịch. Tính kịch của tác phẩm nằm trong xung đột nhưng xung đột lại là yếu tố để giải toả nằm trong xung đột ấy. Hành động kịch thường phát triển theo hướng thuận chiều với xung đột kịch. Xung đột càng căng thẳng thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết liệt, vì thế sức hấp dẫn của tác phẩm tăng lên. Hành động kịch cần được hiểu trong tình huống thống nhất vẹn toàn của nó. Hành động kịch không phải là những hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà là một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung đột. Hành động kịch ở đây chính là cốt truyện kịch được tổ chức một cách thống nhất, chặt chẽ trong khuôn khổ của một chính thể nghệ thuật. Các cốt truyện bằng hành động ấy xoáy vào trung tâm xung đột bằng sự liên kết theo một quy luật riêng: quy luật nhân quả. Mọi hành động trong tác phẩm kịch dù trực tiếp hay gián tiếp đều dựa trên luật nhân quả. Hình thức nhân quả trực tiếp là hình thức mà hành động thứ nhất là nguyên nhân sinh ra hành động thứ 2 và có thể cho đến hết. Hình thức nhân quả gián tiếp là hình thức mà hành động thứ nhất có khi là nguyên nhân của hành động thứ tư hoặc thứ 5. Trong thực tế: Hình thức nhân quả trực tiếp thường được dùng trong các kịch bản ca kịch dân tộc như tuồng, chèo, viết theo lối tự sự, có tuyến kịch rõ ràng. Còn hình thức nhân quả gián tiếp lại được dùng trong các kịch bản kịch nói, viết thành nhiều tuyến kịch, chồng chéo lên nhau, cùng song song phát triển. Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật kịch là trục chính để xác định tính cách nhân vật. Dù ở dạng nào, nhân vật kịch cũng khẳng định bản chất của mình bằng hành động: Một Ac-pa-gông keo kiệt (Môlie); Ô-ten-lô cuồng nhiệt cả tin nhưng không kém phần hung bạo, một Dex-mô-na trong trắng, ngây thơ, Iagô gian trá và hiểm độc, Hăm-lét đau đớn (Sếchx-pi-a). Bấy nhiêu tính cách là bấy nhiêu sự trăn trở, giằng xé dữ dội từ bên trong và những hành động quyết liệt ở bên ngoài. 1.2.3. Ngôn ngữ kịch Khi nói về các yếu tố của văn học. Gooc-ki đã coi “ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học”. Điều đó có nghĩa là không có ngôn ngữ sẽ không có văn học. Đối với nghệ thuật kịch, vai trò quan trọng đó của ngôn ngữ được nhiều tác giả kịch nổi tiếngtrên thế giới công nhận. A.N.Ốt-tơ-rốp-xki nhà sáng lập ra nền kịch Nga ở thế kỷ XIX đã coi ngôn ngữ là điều kiện đầu tiên của tính nghệ thuật. Gooc- ki trong bài “Bàn về kịch” đã khẳng định “Ngôn ngữ đối thoại có ý nghĩa to lớn và thậm chí có ý nghĩa quyết định đối với việc sáng tác kịch”. So với các thể loại khác, hệ thống ngôn ngữ kịch mang tính đặc thù rõ rệt. * Ngôn ngữ nhân vật: Đây là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ kịch. So với hệ thống ngôn ngữ tự sự đây là điểm khác biệt rất rõ. Ngôn ngữ tác giả, biểu 8 https://tophanoi.vn/
hiện trong các lời chỉ dẫn về hoàn cảnh, về nhân vật... chỉ có giá trị hướng dẫn người đọc, diễn viên, đạo diễn, hoạ sĩ trong khi đọc kịch bản, còn khi dựng trên sân khấu chúng sẽ biến mất và nhường chỗ cho tiếng nói của hoạ sĩ trong các cảnh trí, cho ngôn ngữ hành động của diễn viên. Ngôn ngữ nhân vật bao gồm hai hình thức chủ yếu là đối thoại và độc thoại. * Ngôn ngữ đối thoại: Là sự đối đáp qua lại giữa các nhân vật ngôn ngữ đối thoại được coi là dấu hiệu đầu tiên của ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ độc thoại là tiếng nói của nhân vật chỉ nói với chính mình. Để nhân vật tự nói lên những uẩn khúc bên trong, các tác giả kịch nhằm khai thác chiều sâu tâm lý ở nhân vật. Khi trình diễn trên sân khấu, người ta có thể thay đổi màu sắc, ánh sáng, sử dụng tiếng vọng, hoặc tái hiện những hình bóng đã lùi vào quá khứ. Sân khấu hiện đại còn sử dụng thủ pháp đồng hiện: Nhân vật tự phân thân để đối thoại cùng nhau như “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. Ngôn ngữ nhân vật kịch dù đối thoại hay độc thoại trước hết đó là ngôn ngữ khắc hoạ tính cách. Từ những “Lời ăn tiếng nói” riêng của mình, nhân vật kịch “phải biểu hiện ở mức chính xác tối đa một cái gì đó điển hình” (Gorki). Sự chính xác tối đa theo yêu cầu Gorki chính là ở chỗ: Mỗi nhân vật với một nguồn gốc xuất thân, bản chất xã hội là một đặc điểm cá tính riêng phải có tiếng nói riêng thật phù hợp. Đó là một đòi hỏi tất yếu, bởi vì bản chất của nhân vật kịch chỉ có thể được bộc lộ qua chính lời lẽ của chính họ mà thôi. Hệ thống ngôn ngữ có nhiệm vụ mô tả chân dung kịch bằng một loạt các thao tác hành động. Tính hành động của nhân vật kịch không chỉ bộc lộ trong hình tượng sân khấu mà nó đã được hình thành ngay từ trong cấu tạo kịch bản văn học. Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch phải đảm bảo cho sự phát triển đầy kịch tính của cốt truyện và những phản ứng hành động theo kiểu dây chuyền của các nhân vật kịch. Tính hành động là đặc điểmquan trọng của ngôn ngữ kịch, nên diễn viên kịch phải xử lý thích hợp với hành động của nhân vật trên sân khấu. Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống. Ngôn ngữ kịch súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. Ngôn ngữ kịch vừa gần với tiếng nói hàng ngày lại vừa có tính chất văn học. Trong kịch thơ và ca kịch dân tộc ngôn ngữ giàu tính ước lệ, cách điệu phù hợp với âm nhạc. Tóm lại, cái khó của một vở kịch là đòi hỏi mỗi nhân vật phải tự biểu hiện tính cách bằng lời nói và hành động. Tài năng của một nhà viết kịch bộc lộ ngay trong khả năng vận dụng tối đa sức mạnh đặc biệt của ngôn ngữ hội thoại để cấu trúc tác phẩm và khắc hoạ hình tượng. Ở Việt Nam, các tác giả: Nguyễn Huy Tưởng, Lộng Chương, Đào Hồng Cẩm, Lưu Quang Vũ đã thể hiện khá rõ cá tính sáng tạo của mình trong sáng tạo ngôn ngữ. 9 https://tophanoi.vn/
1.3. Một số vở kịch được đưa vào chương trình Sách giáo khoa Ngữ văn (theo chương trình chuẩn) - Chương trình và sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 ( Không có) - Chương trình và sách giáo khoa ngữ văn lớp 11: + Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng). + Tình yêu và thù hận (trích “Rômeo và Juliet” của Sếch- xpia) - Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12: Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (trích - Lưu Quang Vũ). 2. Các văn bảnkịch trong chương trình ngữ văn 11 2.1. Vở kịch “Vũ Như Tô” và đoạn trích trong SGK Ngữ văn 11. rõ rệt về đề tài lịch sử. Các tác phẩm của ông về đề tài này tái hiện những cột mốc lịch sử quan trọng suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.Vở bi kịch Vũ Như Tôkhai thác bối cảnh Thăng Long trong những năm quằn quại dưới sự bạo tàn của Lê Tương Dực thông qua hình ảnh Cửu Trùng Đài “huy hoàng giữa cõi trần lao lực” và người nghệ sĩ“tranh tinh xảo với hóa công”: Vũ Như Tô. Thông qua vở kịch này, Nguyễn Huy Tưởng muốn đề cập đến người nghệ sĩ và bi kịch của họ, bi kịch cái đẹp bị lợi dụng. Bi kịch ấy được tập trung cao nhất trong hồi V –hồi kết của vở kịch: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.Xuyên xuốt vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài như một hiện thân của cái đẹp. Người nghệ sĩ mong muốn tạo tác nên một tác phẩm nghệ thuật vĩnh cửu nhằm “ tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho giống nòi một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công”. Đó là cái đẹp thuần khiết của nghệ thuật, nhằm phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước, có giá trị tôn vinh người Việt. Nhưng đáng tiếc, cái đẹp mà Vũ Như Tô mong muốn ấy đã bị lợi dụng và hoen ố bởi những dục vọng thấp hèn và toan tính chính trị của người đời. Trong các hồi trước, chúng ta thấy cái đẹp đã lần lượt phải chịu những oan khuất như bị tha hóa (Lê Tương Dực chỉ coi Cửu Trùng Đài là chốn ănchơi hưởng lạc chứ không phải là công trình nghệ thuật để lại cho muôn đời sau như mong muốn của Vũ Như Tô), hiểu lầm (Nhân dân coi Cửu Trùng Đài là cội nguồn gây nên đau khổ của họ chứ không phải là chính sách hà khắc của triều đình phong kiến đương thời) vàlợi dụng (Trịnh Duy Sản dùng Cửu Trùng Đài như công cụ thổi bùng lên những uất ức trong lòng dân chúng, tạo nên một thời thế hỗn loạn để thuận tiện cho âm mưu giết vua đoạt quyền của mình). Đến hồi kết Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, khi tất cả những bức xúc, những mâu thuẫn không thể điều hòa được ấy được dồn nén và bung ra một cách mạnh mẽ nhất, tất yếu cái đẹp phải gánh chịu số phận nghiệt ngã đó là sự bức tử, sự diệt vong. Trong các nhà văn Việt Nam, Nguyễn Huy Tưởng là tác giả có thiên hướng 10 https://tophanoi.vn/
Chỉlàmộtđoạntrích,nhưngVĩnh biệt Cửu Trùng Đàicócấutrúc đủ nhưmộtvởkịch:Cóthắtnút(mâuthuẫn),xungđột,caotràovàmởnút.Với cảvởkịch,đoạntríchnàylàphầncaotràorồigiảiquyếtmâuthuẫnlớnnhất củacảvởkịch:XungđộtgiữamộtbênlàhônquânLêTươngDựcvàđámbề tôitrungthành,mộtbênlàquầnchúngnhândânđóikhổvàphephongkiếnđối lậptậptrungởsựkiệnxâydựngCửuTrùngĐàivàmâuthuẫnthứhailàmâu thuẫnxungđộtgiữacôngdânvàngườinghệsĩtrongtưtưởngnghệthuậtthông quanhânvậtchínhVũNhưTô.CuộcđốithoạigiữaĐanThiềmvàVũNhưTô ởlớpIcủahồikịchchothấyVũNhưTôlàmộtnghệsĩchỉquantâmđến nghệthuậtmàkhôngbiếtrằngtácphẩmnghệthuậtcủamìnhgâyrabaolầm than,khổcựcchodânchúng.Mụcđíchnghệthuật,niềmkhaokhátcủa ngườinghệsĩđắmchìmtrongmơmộngđãđẩyVũNhưTôđếnvịthếđối nghịchvớilợiíchtrựctiếpvàthiếtthựccủađờisốngnhândân.Vìquáquan tâmđếnnghệthuậtmàquênđimốiquanhệcủanghệthuậtvớiđờisống, khôngthểhiểuđượcđiềuĐanThiềmnói.VũNhưTôthàchếtvớiCửuTrùng Đàichứkhôngchịuchạytrốn.Đâycũngchínhlàphầnthắtnútcủađoạnkịch. Caotràocủahồikịchtậptrungởbalớpcuốicùng.ĐólàcuộcđốiđầugiữaVũ NhưTôvànhữngngườinổidậy.Khôngkhí,nhịpđiệucủasựviệcđượcdiễn tảtheomứcđộngàycàngdồndậpthểhiệntínhchấtgaygắtcủamâuthuẫn vàđẩydầnxungđộtkịchlênđếncaotrào.ĐoạnđốithoạigiữaVũNhưTôvà NgôHạchcùngđámquânsĩthểhiệncaotràocủamâuthuẫn.Giữahọkhôngcó tiếngnóichung.XungđộtđượcgiảiquyếtbằngsựrađivĩnhviễncủaCửu TrùngĐàivàVũNhưTô.Sựrađinàynóilênrằngkhinghệthuậtmâuthuẫn vớicuộcsống,nghệthuậtkhócóthểtồntại. 2.2. Vở kịch “Romeo và Juliet” và đoạn trích trong SGK Ngữ văn 11. Romeo và Julietđược coi là vở bi kịch nổi tiếng đầu tiên của Shakepeare được viết trong khoảng những năm 1594 - 1595 gồm 5 hồi bằng thơ xem lẫn văn xuôi. Nội dung vở kịch xoay quanh câu chuyện tình yêu mãnh liệt của Romeo và Juliet, tình yêu trên nền thù hận và vượt lên trên thù hận như là biểu tượng của tình yêu bất diệt. Theo dõi diễn biến của vở kịch chúng ta có thể khẳng định xung đột trọng tâm chi phối sự vận động và phát triển của các yếu tố khác trong Romeo và Julietchính là xung đột giữa tình yêu trong sáng, mãnh liệt giữa đôi trai tài gái sắc này và mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ. Đây không đơn giản là sự xung đột bó hẹp của một gia đình, một dòng họ mà nó thực sự trở thành xung đột mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đặt vào bối cảnh thời Phục hưng khi cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới đang diễn ra khá khốc liệt thì việc xây dựng nên một xung đột kịch như vậy có ý nghĩa rất lớn. Xung đột giữa tình yêu và thù hận đã thực sự đặt ra vấn đề lớn hơn đó là sự xung đột giữa lí tưởng nhân văn cao cả với những trở lực đen tối của xã hội. Và có lẽ chính ý nghĩa xã hội sâu sắc này đã làm nên sức sống cho vở 11 https://tophanoi.vn/
kịch, ghi danh Romeo và Julietvào danh sách những vở kịch thành công nhất của Shakespeare và của kho tàng kịch thế giới. Romeo và Julietmặc dầu có kết thúc bi thảm nhưng vẫn được coi là vở bi kịch có âm hưởng của niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa nhân đạo. Lần đầu tiên trong văn học nhân loại xuất hiện một tình yêu mộc mạc chân thành, cháy bỏng và quyết liệt của tuổi trẻ. Hình ảnh Romeo và Juliet đã sẵn sàng vượt qua rào cản thù hận của hai gia đình, sẵn sàng hi sinh để giữ trọn lời thề thủy chung là một biểu tượng đẹp, một thành tựu tuyệt vời của văn hóa Phục hưng. Romeo và Julietđã khai thác đề tài tình yêu - đề tài muôn thủa của nhân loại, xây dựng lên biểu tượng sức mạnh của tình yêu, lòng thủy chung. Nhưng không chỉ có vậy, tác phẩm còn ghi lại dấu ấn sâu đậm trong lòng nhiều thế hệ bởi tác phẩm đã xây dựng rất thành công hình tượng người phụ nữ. Những phụ nữ Hi Lạp và La Mã thường là người phụ nữ chịu đựng, người phụ nữ đón nhận tình yêu như là một định mệnh. Người phụ nữ trong thời Phục hưng Ý tuy tràn đầy chất men của sự sống nhưng cơ bản vẫn mang tính lý tưởng hóa sâu sắc, chưa thoát khỏi ánh hào quang của Gia tô giáoVà sau Juliet chúng ta có nàng Simen, Juninhưng họ vẫn là người phụ nữ dè dặt, không dám bước qua thành kiến xã hội, không dám tự chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Ở Juliet chúng ta cảm nhận được người phụ nữ với một tình yêu trong sáng, thủy chung, mãnh liệtvà quan trọng hơn đó là người phụ nữ sinh ra để làm chủ cuộc đời mình, người phụ nữ dám đấu tranh, người phụ nữ của những hành động và lựa chọn sáng suốt và không hề có một phút ân hận về quyết định của mình. Romeo và Juliet với 16 lời thoại, 74 câu thơ. Romeo quay lại, trèo tường vào vườn nhà Capiulet vừa lúc Juliet xuất hiện trên cửa sổ rồi hai người bày tỏ tình cảm với nhau. Theo thống kê nhân vật Romeo có 8 lời thoại, nhân vật Juliet có 8 lời thoại. Đoạn trích "Tình yêu và thù hận" chỉ là cảnh đầu tiên của hồi II trong vở Dựa vào văn bản tác phẩm chúng ta có thể thấy Romeo và Juliet không đối thoại với nhau ngay từ đầu, mà chỉ thực sự nói chuyện với nhau từ lời thoại thứ 7. Sáu lời thoại đầu tiên thực chất là những lời độc thoại nội tâm được thốt lên thành tiếng, nói khe khẽ, nói một mình, nói để cho mình nghe. Từ lời thoại thứ 7 trở đi ngôn ngữ chuyển sang đối thoại. Căn cứ vào những chỉ dẫn (các chữ in nghiêng), chúng ta có thể hình dung được không gian, thời gian diễn ra hành động của hai nhân vật. Đó là một đêm khuya, trăng sáng khi dạ hội vừa kết thúc, nàng Juliet đứng trên ban công nhà, chàng Romeo núp dưới lùm cây dưới ban công trong vườn nhà Capiulet. Về xung đột kịch, trong đoạn trích này không xuất hiện xung đột giữa tình yêu của đôi nam nữ với mối thù hận lâu đời của hai dòng họ. Hằn thù của hai dòng 12 https://tophanoi.vn/
họ chỉ có tính chất phông nền để thể hiện tình yêu sâu sắc, mạnh mẽ của Romeo và Juliet. II. Thực trạng của vấn đề: Thực trạng dạy học kịch bản văn học trong nhà trường hiện nay Việc đưa những tác phẩm kịch vào chương trình chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với đủ các loại hình văn học (tự sự, trữ tình, kịch) và một số thể kịch quen thuộc: Dân gian, cổ điển, hiện đại. Bên cạnh đó cũng cần có sự phân biệt: kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp (Văn học, hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, nhảy múa...) trong khi đó văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Xem biểu diễn kịch trên sân khấu không giống với việc đọc một bài văn, một bài thơ. Tuy nhiên kịch được dạy học trong nhà trường là kịch bản văn học có bảng phân vai, hướng dẫn nội dung về cách thức diễn vở kịch. Thuận lợi của học sinh THPT là ở cấp Trung học cơ sở các em đã được tiếp cận, được giới thiệu một số đoạn trích kịch tiêu biểu: Ở lớp 7 là thể loại chèo của sân khấu dân gian Việt Nam: Trích “Nỗi oan hại chồng”, chèo “Quan âm Thị Kính”; Ở lớp 8 trích: “Ông Giuốc đanh mặc lễ phục”- trong vở hài kịch của Môlie “Trưởng giả học làm sang”; Ở lớp 9 là 2 đoạn trích của hai vở kịch nói hiện đại “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng, “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ. Song khó khăn, thiếu sót trong dạy học kịch vẫn còn đó, nên việc dạy học kịch vẫn chưa thật sự hiệu quả. Nguyên nhân là do thời lượng dành cho kịch bản văn học khiêm tốn, chúng ta chỉ có: Trích đoạn Tình yêu và thù hận (Rô-me-ô và Giu-li-ét –tác giả Sếch-xpia); Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài (Trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng), chương trình và sách giáo khoa Ngữ Văn 12 đưa thêm đoạn trích kịch từ một vở kịch nổi tiếng của thập niên tám mươi, đó là “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”của Lưu quang Vũ. Văn bản kịch không xa lạ nhưng khó tìm hiểu với trò, khó khơi gợi yêu thích nếu chỉ tìm hiểu kịch trên trang sách. Cơ sở thiết bị cho dạy học chưa phong phú. Tài liệu tham khảo về kịch không phổ biến, dễ kiếm như các thể loại văn học khác. Kinh nghiệm thưởng thức kịch hạn chế,kĩ năng giảng dạychưa nhiều. Bên cạnh đó, ý thức họctập và sự yêu thích kịch chưatrở thành niềmđam mê trong học sinh, các em còn quá ít hoặc chưa từng được trực tiếp xem biểu diễn kịch trên sân khấu. Trongthựctếgiảngdạy, giáoviênvàhọcsinhchưa yêu thíchcácgiờ dạyhọckịchbảnvănhọc.Đâylàtâmlýảnhhưởnglớntớibàigiảngvàsựtiếp nhậncủachínhgiáoviên.Mộtsốgiáoviêntuỳhứnggiảngdạykịchmàquên mấtcáclờithoạinhânvật,dẫntớidạyhọcthoátlykiếnthứccủahànhđộng kịch.Hầunhưhoạtđộngliênmônđểmởrộngkiếnthức,đàosâuhiểubiếtcủa họcsinhvớiloạihìnhnghệthuậttổnghợpnàykhôngcó. Ởmột vài giờ dạy, việc bám sát đặc trưng thể loại chưa rõ, giáo viên còn tham kiến thức, sa đà vào diễn 13 https://tophanoi.vn/
giải mà quên mất đặc trưng diễn của kịch. Hoặc một thực trạng nữa là giáo viên dạy kịch như dạy văn bản tự sự, dạy chay, học kịch bản văn học nhưng học sinh không được xem kịch. Học sinh không được khơi gợi để tưởng tượng hoạt cảnh nhân vật kịch gắn với ngôn ngữ và hành động trong xung đột cụ thể. Đặc biệt với trích đoạn kịch Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, học sinh không dễ gì hiểu được những triết lí nhân sinh - nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Khi hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản, giáo viên chưa đặt kịch trong mối tương quan với các tác phẩm cùng giai đoạn để thấy được chiều sâu của tác phẩm. Một hạn chế lớn nữa trong dạy học kịch bản văn học ở nhà trường phổ thông hiện nay là các giáo viên đều nặng về truyền thụ nội dung văn bản đặc biệt là khi học văn bản kịch nước ngoài. III. Định hướng dạy học văn bảnkịch trong chương trình ngữ văn 11 - THPT 1. Hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà: Đây là công việc hết sức quan trọng, đặc biệt trong dạy học kịch bản văn học. Có nhiều hình thức yêu cầu học sinh chuẩn bị. Các yêu cầu này nên cụ thể hoá thành các câu hỏi mệnh lệnh, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng. Câu hỏi giáo viên đưa ra có hệthống từ thấp đến cao, từđơn giản đến phức tạp, phù hợp với mọiđối tượng học sinh, kích thích ham muốn tìm hiểu và học tập của các em. Để có một giờhọc sôi nổi, thành công, người thầycần nắm chắcđặc trưng thể loại, mục tiêu bài học để chuẩn bị được mộthệ thống câu hỏi khoa học. 1.1. Chuẩn bị của giáo viên: - Giáo viên chia lớp làm 4 tổ, chuẩn bịtập kịch trước một tuần. - Giáo viên hướng dẫnhọc sinh chọn lớp kịchđểdiễn. (Với đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, 4 tổ nên lầnlượt diễn các lớp 1,7,8,9). - Giáo viên giới thiệu tài liệu tham khảo, băng đĩa cho học sinh, địachỉ trên mạng để tìm tư liệu,… - Giáo viên phân công mộthọc sinh trong vai trò MC đồng thời là người dẫn chuyện, dẫn dắt đểđi vàovở diễn. - Giáo viên hướng dẫnhọc sinh diễn kịch: Phải làm nổi bật đặc điểm, tính cách của nhân vật, xung đột và hành động kịch qua lời thoại của từng nhân vật. Chú ý tới giọng điệu, cử chỉ, nét mặt,điệu,bộ, từ ngữ, kiểu câu của mỗi nhân vật. Từđó làm rõ chủđề tư tưởng, ý nghĩa xã hội củađoạn trích, tác phẩm. - Học sinh diễn thử cho giáo viên xem trước, giáo viên nhận xét, góp ý, sửa chữa. - Giáo viên phải chú ý thời gian biểu diễncủa học sinh. 14 https://tophanoi.vn/
1.2.Chuẩn bịcủahọcsinh: - Học sinh nhận câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà từ giáo viên (tìm hiểu và soạn trướcở nhà). - Tập diễn kịch theo tổ. - Diễn thử cho giáo viên xem trước,lắng nghe góp ý. - Chỉnh sửa theo yêu cầu của giáo viên để tốt hơn. 2. Các hoạt độngtrênlớp: 2.1. Khởi động hấp dẫn. Đây là hoạt động khởi đầu của một tiết học. Nhưng đôi khi người dạy thường xem nhẹ hoặc bỏ qua nó. Có những thầy cô đơn giản hóa lời giới thiệu bài với hình thức nhắc lại bài cũ đã học gì, bài mới sẽ học gì, chính điệu đó phần nào làm giảm đi hứng thú học văn của học sinh. Đây là “khúc dạo đầu” của bài giảng nhằm tạo tâm thế cho giờ dạy, tạo hứng thú cho học sinh, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới. Đưa ra mục tiêu của bài học cho học sinh. Giáo viên có thể tiến hành hoạt động này bằng nhiều cách khác nhau như kể một câu chuyện, trình bày sinh động một trích đoạn của bài học mới, đưa một thông tin hấp dẫn, một số tranh ảnh, giáo cụ trực quan, đặt một số câu hỏi có tình huống cần giải quyết dựa trên vốn kinh nghiệm của học sinh, có liên quan đến phần nội dung nào đó của bài học mới nhằm thu hút sự quan tâm của học sinh với bài học. - Giáo viên dẫn dắt học sinh vào bài - Gọihọc sinh trình bày hiểu biếtcủa mình về cuộc đời và tác phẩm của tác giả, cho biết hoàn cảnh và mụcđích sáng tác vở kịch, xác định vị trí và tóm tắtđoạn trích kịch. - Giáo viên tổ chức cho học sinh diễn kịch: một học sinh trong vai trò MC đồng thờilà người dẫn chuyện, dẫndắtđể đi vào vở diễn. - Những học sinh ở 4 tổđược phân công diễn kịch, diễn lần lượt theo trình tự từng lớp kịch (10 phút). Khi diễn, chú ý thể hiện tính cách nhân vật, xung đột, hành động kịch. 2.2. Đọc phần văn bản kịch Chúng ta đều biết tầm quan trọng của việc đọc văn bảntrong giờ dạy học tác phẩm văn chương. Việc đọc văn bản kịch khác với đọc văn bản trữ tình hoặc tự sự, nghị luận. Trong khâu chuẩn bị bài, giáo viên cần yêu cầu học sinh đọc trước một vài lần, tìm kịch bản trên mạng để xem và so sánh lời thoại nhân vật để diễn đạt cho đúng. Sau khi đọc phần văn bản, học sinh có thể tập diễn lại. Trong giờ dạy học, có hai hình thức có thể vận dụng là đọc phân vai và chuyển thể thành kịch. Dù sử dụng 15 https://tophanoi.vn/
hình thức nào, phải đảm bảo đọc đúng giọng điệu, thể hiện đúng tâm trạng, xung đột của nhân vật qua lời thoại, có người dẫn dắt kịch bên cạnh các lời thoại. Nên cho học sinh hình dung bối cảnh sân khấu, khung cảnh cụ thể của các lời thoại bên cạnh việc đọc. 2.3. Hoạtđộngcắtnghĩa(lí giải sự phản ánh của văn bản) Hoạtđộngphântíchvàhoạtđộngcắtnghĩatrongcơchếtiếpnhậntác phẩmvănchươngluônlànhữnghoạtđộnghỗtrợ,bổsungchonhauvànhiều khigắnkếtkhôngthểtáchrờitrongsựtiếpnhận.Hoạtđộngcắtnghĩađemlại nhậnthứcđúngđắn,cócơsởchonhữnghiệntượngvănhọccógiátrị,quá trìnhcắtnghĩagópphầnthựchiệnvàđiềuchỉnhviệclĩnhhộitrongdạyhọcvà phântíchvănchương.Nếuphântíchchỉdừnglạiởviệcvậndụngkiếnthức vềđốitượngphântíchđểkhámpháthì"cắtnghĩa"đòihỏiphảicómộttrình độnănglựcvậndụngkiếnthứcvănhọcrộnghơnđểgiảithíchvềđốitượng. Quahoạtđộngcắtnghĩa,giúphọcsinhtừngbướcgiảithíchýnghĩacủa từngchữ,từngtừ,từngcâuvàliênkếtchúnglạiđểtìmrađượcýnghĩakhái quátcủatácphẩm.Trongquátrìnhđó,ngườitiếpnhậnphảihuyđộngkinh nghiệmthẩmmĩ,tưtưởng,khảnăngliêntưởng,tưởngtượng,sosánhđểhiểu vàhìnhdungranhữngvấnđềtácgiảnêuravàgửigắmtrongtácphẩm. Dạy học đoạn trích này, giáo viên cùng phối hợp với học sinh cắt nghĩa: Tiêu đề tác phẩm, cấu trúc đoạn trích, sơ đồ nhân vật, tư tưởng chủ đề, các hình tượng, chi tiết nghệ thuật tiêu biểu. Giáo viên có thể đặt các câu hỏi sau khi cho đọc văn bản kịch. 2.4. Tiếp nhận văn bản bằng hệ thống câu hỏi: Đây là nhiệm vụ học tập được nêu ra trong giờ học, vừa giúp học sinh nắm vững kiến thức kỹ năng, vừa góp phần phát huy trí lực, năng lực đọc, nghe, viết, nói, liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh. Trong SGK Ngữ văn đã không hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản. Tuy nhiên khi tiến hành giờ dạy căn cứ vào từng đối tượng học sinh, đặc trưng thể loại, mục đích yêu cầu giờ dạy để xây dựng hệ thống câu hỏi cho phù hợp. Hệ thống câu hỏi đó cần kết nối được phần tự học, chuẩn bị bài ở nhà với bài học trên lớp. Học sinh được tiếp tục mạch suy nghĩ, làm sáng tỏ thêm những gì các em đã hiểu đã nhận thức, đã thực hành, ứng dụng và đặc biệt điều chỉnh được những gì các em hiểu, làm chưa đúng, chưa trúng. Câu hỏi phải chính xác, rõ ràng có màu sắc văn học, có khả năng khêu gợi tình cảm, xúc động thẩm mĩ cho học sinh. Câu hỏi phải vừa sức với học sinh, có hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. 2.4.1.Câuhỏipháthiện: 16 https://tophanoi.vn/
Đây là câu hỏi có mức độ thấp nhất trong các loại câu hỏi, dùng đểkiểm tra phần đọc và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, cao hơn dùng để phát hiệntừ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, các tín hiệu nghệ thuậtnhằm khơi gợi cảm thụ của học sinh. Loại câu hỏi này phù hợp với học sinh trung bình, thậm chí yếu, kém. VớiđoạntríchVĩnhbiệtCửuTrùngĐài,giáoviênnêumộtsốcâuhỏi: 1. Em hãy đọc phần Tiểu dẫn về tác giả Nguyễn Huy Tưởng trong SGK và tóm tắt các thông tin trong đó? 2. Cho biết hoàn cảnh và mục đích sáng tác vở bi kịch lịch sử Vũ Như Tô? 3. Hãy tóm tắtdiễn biến chính của vở kịch Vũ Như Tô? 4. Xác định vị trí và tóm tắt xung đột xảy ra trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài? 5. Xác định các mâu thuẫn cơ bản của vởkịch VũNhư Tô được thể hiện trong hồi V? 6. Chỉ ra những nét đặc sắcvề nghệ thuật của đoạn trích? Vớiđoạn trích Tình yêu và thù hận, giáo viên có thể sử dụng mộtsố câu hỏi: 1. Trình bày hiểu biết của em về tác giảSếchxpia và vở kịch Romeo và Juliet (đề tài, thể loại, tóm tắt tác phẩm)! 2. Cho biết vị trí đoạn trích Tình yêu và thù hận ! 3. Hình thức sáu lời thoạiđầu và mườilời thoại sau của đoạn trích là gì? 2.4.2. Câuhỏigiảithích,phântích: Giúp học sinh khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩmkịch. Các em có thể trình bày hiểu biếtcủa mình về vấn đềđượcđưa ra, từđó giáo viên hướng dẫn các em đi vào những cảm nhậnđúng, sâu sắc. Loại câu hỏi này phù hợp với học sinh trung bình và khá. Ví dụ: 1. Cho biếtdiễn biến và kếtquả của hai mâu thuẫn trong vởkịch Vũ Như Tô. Hai mâu thuẫn này có quan hệ và tác động lẫn nhau không ? 2. Tính cách, diễn biến tâm trạng Vũ Như Tô được thể hiện nhưthế nào qua thái độ, ngôn ngữ, hành động của ông ở các lớp kịch thuộc hồi V ? 3. Tính cách, diễn biến tâm trạngĐan Thiềmđượcthểhiệnnhưthế nào qua thái độ, ngôn ngữ, hành động của bà ở các lớp kịch thuộc hồi V ? 4. Tìm hiểu và giải thích “bệnh Đan Thiềm” theo quan niệm của 17 https://tophanoi.vn/
Nguyễn Huy Tưởng trong đoạn trích? 5. Em có nhận xét gì về cách giải quyết của tác giả ở mâu thuẫn thứ nhất? 2.4.3 Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề chính là phương tiện quan trọng để giáo viên xác định tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này không nhằm mục đích tái hiện kiến thức, cũng không nhằm khơi gợi sự tự biểu hiện của học sinh khi đánh giá chi tiết toàn bộ tác phẩm. Câu hỏi nêu vấn để phải làm rõ vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm văn học, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh, phải động viên khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. Đó cũng chính là sản phẩm của nghệ thuật sư phạm. Câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh, khi đưa ra tình huống các em có thể tranh luận nhiều ý kiến thú vị. Các em được nói và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm. Từ đó giáo viên nắm bắt được nhận thức của các em để hướng nhận thức đó tới thầm mỹ văn chương. Ví dụ 1: Có ý kiến cho rằng: Tình yêu đắm say của Romeo và Juliet vượt lên trên thù hận truyền kiếp. Anh/chị có đồng ý với điều này không? Hãy lí giải? Ví dụ 2: Romeo có sự cảm nhận về vẻ đẹp của Juliet dưới cái nhìn say đắm của kẻ đang yêu, em hãy tìm các lời thoại kịch và các chi tiết chứng minh điều đó? 2.4.4.Câu hỏi gợi cảm xúc, tái hiện, tưởngtượng: Là câu hỏi mởrộng, nâng cao cảm thụcủahọc sinh sau khi đã phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật. Có thể bình một chi tiết, một nhân vật hay một khía cạnh của văn bản kịch. Loại câu hỏi này phù hợp với học sinh khá, giỏi. Ví dụ: 1. Em hãy chia sẻsuy nghĩ về vẻđẹp của nhân vật VũNhư Tô trên cơ sở bài viếtđã chuẩnbị ở nhà? 2. Vẻ đẹp của nhân vật Đan Thiềm thể hiện trong đoạn trích là gì? 3. Mâu thuẫnthứ hai vẫn còn là một câu hỏi để ngỏ, chưa thểgiải quyết triệt để. Thử lí giải nguyên do và nêu cách giải quyết của em? Theo em, Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải, Vũ Như Tô có tội hay là có công? 4. Em hãy viếtđoạn kết cho vở kịch Vũ Như Tô? 2.5.Họcnhóm,thảoluận: Giáo viên chia lớp làm 4 nhóm, các em thảo luận mộthoặc mộtsố câu hỏi có vấn đề mà giáo viên đã cho từ trước hoặc có thể thảo luận thêm những câu hỏi mới (giáo viên định hướng). Giáo viên theo dõi các em sát sao, lắng nghe các em nói, tôn trọng ý kiến của các em, động viên, khích lệ, khen thưởngđúng 18 https://tophanoi.vn/
lúc, tạo cho các em sựhứng thú, tích cực học tập. Ví dụ: 1. Cho biết các mâu thuẫn cơ bản của vởkịch VũNhư Tô, diễn biến và kết quả! Hai mâu thuẫn này có quan hệ và tác động lẫn nhau không ? 2. Tính cách, diễn biến tâm trạng Vũ Như Tô được thể hiện nhưthế nào qua thái độ, ngôn ngữ, hành động của ông ở các lớp kịch thuộchồi V ? 3. Tính cách, diễn biến tâm trạngĐan Thiềmđượcthể hiệnnhưthế nào qua thái độ, ngôn ngữ, hành động của bà ở các lớp kịch thuộc hồi V ? 4. Em có nhận xét gì về cách giải quyết của tác giả ở mâu thuẫn 1? Mâu thuẫn 2 vẫn còn là một câu hỏiđểngỏ, chưa thể giải quyết triệt để.Thử lí giải nguyên do và nêu cách giải quyết của em? Theo em, VũNhư Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải ? Vũ Như Tô có tội hay là có công? 2.6. Sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học. dạy học, tránh dạy chay. Sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn mang lại hiệu quả cao cho các giờ học trong các hoạt động như nêu vấn đề, tìm kiếm thông tin, mở rộng kiến thức. Kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết và hứng thú học tập của học sinh. Nếu dùng không đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện dạy học lại có tác dụng ngược lại.Với các văn bản kịch, chúng ta có thể sử dụng một đoạn băng hình, một vài mẫu thông tin, vài phút nghe băng đĩa, vài tranh ảnh, những sơ đồ bảng biểu, những bài tập được in vẽ sinh động cũng có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu cực phụ thuộc cách thức vậndụng của giáo viên.Giáo viên có thể dễ dàng tra tìm các tư liệu hình ảnh, vi deo về các đoạn trích kịch này trên mạng vhojbieen tập lại cho phù hợp với điều kiện, thiết kế của giờ dạy. Tất nhiên chúng ta không thể sử dụng tất cả các đoạn kịch, đoạn phim hay tranh ảnh, cần có sự thiết kế, cắt đoạn, sắp xếp đảm bảo thời gian và hiệu quả dạy học. Trong đổi mới phương pháp dạy học, cần sử dụng hợp lý các phương tiện IV. Hiệu quả áp dụng SKKN 1. Hiệu quả của việc tổ chức dạy học kịch theo quan điểm tích cực không khí giờ học sôi nổi, thân thiện, giáo viên và học sinh cócơ hội gần gũi, chia sẻhơn, tạo nên tâm lí dạy và học thoải mái, không căng thẳng, nặng nề. Học sinh được hoà nhập, tưởng tượng trong không khí và thế giới của kịch, vui vẻ được xem, được thưởng thức, được diễn kịch, sống trong thế giới của kịch, thậm chí có học sinh từ bài học này đã chia sẻ mơ ước trở thành diễn viên kịch. Học sinh thật sự chờ đợi tiết học bằng thái độ chủ động, thích thú, các em 19 https://tophanoi.vn/
nâng cao hiệu quả và mục tiêu dạy học. Dạy học kịch theo đúng đặc trưng loại thể, đổi mới phương pháp dạy học, Học sinh thực sựđượcsống với tác phẩm, hoạtđộng sáng tạo của học sinh được phát huy. Giờ học văn, đặc biệt là giờhọckịch bản vănhọc trở nên sinh động, hấp dẫn các em hơn, giúp các em không những yêu thích tác phẩm vănhọc nói chung, tác phẩmkịch bản vănhọc nói riêng mà còn biết nói lên suy nghĩ,cảm nhận của riêng mình. Tạo dựng khảnăng liên kết nhóm, sự tự tin và kĩnăng thuyết trình vấn đề ởhọc sinh. Rèn luyện đượckĩ năng nói trước đám đông, kĩ năng tự tin, phát hiện năng khiếu và rèn luyện nhiều kĩ năngtốt cho học sinh. KẾT QUẢ KHẢO SÁT THEO TIÊU CHÍ: Lớp 11A1 0% học sinh Lớp 11A6 100% học sinh Thích thú 92,5% (38 học sinh) Thích thú Bình thường 5% (02 học sinh) Bình thường 0% học sinh KẾT QUẢ KHẢO SÁT SAU GIỜ HỌC BẰNG CÂU HỎI Không thích 2,5% (01học sinh) Không thích “Vấn đềđặt ra trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là gì ? Điểm 3 - 4 Điểm 5 - 6 0/38 02 Lớp Điểm 7 - 8 10 05 Điểm 9 - 10 2 01 11A1(38 HS) 11A6(40 HS) 26 32 2. Một vài kinh nghiệm mục tiêu cuối cùng vẫn phải đảm bảo là Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩnăng bài học. Vì thế giáo viên cần linh hoạt, chủ động trong dạy học, làm chủ thời gian và kiến thức. Dù có sử dụng phương pháp tổ chức dạy học tích cực nào chăng nữa thì thời lượng dạy học, khi tổ chức, thiết kế các câu hỏi và hoạt động nhóm phải đảm bảo nguyên tắc không mất thời gian, không gây rắc rối, không gây nhiễu bài học. Khi kết hợp hoạt động xem, diễn, thưởng thức phải không ảnh hưởng đến 20 https://tophanoi.vn/
yên tĩnh, đảm bảo; Các điều kiện màn chiếu, âm thanh tốt, kín đáo, không ảnh hưởng đến lớp học bên cạnh. Có hình thức khuyến khích, động viên học sinh, trân trọng ý kiến và sự sáng tạo của học sinh trong cách trình bày ý kiến. Giáo viên cũng cần chúýcông tác chuẩn bị: Không gian lớp học rộng rãi, học này, giáo viên cần định hướng học sinh hình dung được các xung đột và hành động kịch, hành động của các nhân vật trên sân khấu, để dạy học kịch vẫn bám sát đặc trưng thể loại. Đặc biệt, giáo viên và học sinh không thể thiếu sự tưởng tượng trong bài PHẦN KẾT LUẬN ngừng, người viết sáng kiến mong muốn đóng góp một phần kinh nghiệm vào kho tàng kinh nghiệp dạy học Văn của bạn bè đồng nghiệp. Với các em học sinh trường THPT số 1 Văn Bàn, chắc chắn các hình thức dạy học thể loại kịch tích cực sẽ giúp các em học tốt hơn, tích cực hơn và giúp các em luyện rèn được nhiều kĩ năng cần thiết, nắm sâu bài học sinh động để sẵn sàng đối mặt với các kì thi. Hình thức xem, diễn, thưởng thức, tư duy, so sánh đã góp phần gây hứng thú hơn trong tiết học, học sinh đã có sự chuyển biến hơn, tích cực giao lưu với thầy cô giáo hơn, trong mỗi giờ học tất cả học sinh đều tham gia và muốn tham gia vào quy trình dạy –học. Trong điều kiện dạy học còn nhiều khó khăn, học sinh đang ít nhiều giảm đi hứng thú với môn học Ngữ văn, thiết nghĩ làm sao cho môn học của chúng ta gần hơn với nghệ thuật, gần hơn với cuộc sống, được các em chờ đợi, yêu mến từng giờ học là điều mà giáo viên Văn nào cũng thiết tha mong muốn. Với tinh thần "Tất cả vì học sinh thân yêu" và sự sáng tạo, đổi mới không nghiệm từ quá trình tìm tòi đổi mới phương pháp dạy học văn bản kịch trong nhà trường. Để kinh nghiệm này có tính khả thi, ngoài việc mỗi giáo viên phải không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, tâm huyết với nghề, cần cóthêm sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo nhà trường và ngành giáo dục trong việc quan tâm, chỉđạo đầu tư thêm tài liệu, tổ chức các cuộc thi, cuộc hội thảo và phong trào thi đua dạy học tạo không khí, môi trường học tập tích cực. Cần nhất là giáo dục, tuyên truyền, định hướng xã hội tốt hơn nữa để môn học Ngữvăn trở lại với vị trí của môn học giáo dục toàn diện, môn học nghệ thuật, nhận được sự yêu thích, say mê của học trò. Cần dành thời gian bên cạnh việc dạy, giảng, bình như chúng ta đã làm, hãy để học sinh được chơi, được diễn, được xem nữa, để đảm bảo tinh thần thoải mái, hứng thú. Tuy nhiên, cũng xin được chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp một vài kinh Trong quá trình thể nghiệm và viết lý thuyết những kinh nghiệm này không tránh Trên đây là một chút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của bản thân. 21 https://tophanoi.vn/
khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý, chỉnh sửa của lãnh đạo nhà trường cũng như của các đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn. Người viết Bùi Thu Thủy ********************* PHẦN THỰC NGHIỆM ĐỀ TÀI Tiết 60, 61, 62 VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI ( Trích “ Vũ Như Tô” ) - Nguyễn Huy Tưởng - A. Mục tiêu bài học: Giúp học sinh: 1. Về kiến thức: - Hiểu được bi kịch của những nghệ sĩ nhiều tài năng khát vọng mà không có điều kiện thi thố, thực hiện và thái độ cảm thông trân trọng của Nguyễn Huy Tưởng đối với họ. - Thấy được những nét đặc sắc trong nghệ thuật kịch của tác giả qua đoạn trích. 2. Kĩ năng: Đọc hiểu văn bản kịch, phân tích, cảm nhận các vấn đề văn học. 3. Thái độ: Tình yêu cái đẹp và thái độ ngưỡng mộ, trân trọng tài năng của con người. B. Tiến trình bài học: 1. Ổn định tổ chức: ( 3/ ) 11A1: 11A6: 2. Kiểm tra đầu giờ: - Tiết 1: Mục đích, yêu cầu và vai trò của phỏng vấn ? - Tiết 2: Em hãy tóm tắt nội dung chính và nêu chủ đề của vở kịch Vũ Như Tô? - Tiết 3: Phân tích xung đột cơ bản của kịch Vũ Như Tô? Xung đột chủ yếu thể hiện trong trích đoạn là gì? 3. Bài mới: Hoạt động 1:Khởi động - Cho học sinh xem trích đoạn kịch cảnh cuối cùng 22 https://tophanoi.vn/
- Câu hỏi: Ấn tượng của em khi xem cảnh kịch vừa rồi là gì ? Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt Tiết 1 Hoạt động 2: Tìm hiểu chung I. Tìm hiểu chung: 1. Tác giả: a. Cuộc đời: (1912 - 1960) * Em hãy nêu những nét cơ bản về cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng? - Quê quán Đông Anh- Hà Nội. - Xuất thân trong một gia đình nhà nho. - Sớm tham gia cách mạng và các hoạt động văn hoá cứu quốc của dân tộc. b. Sự nghiệp: - Thành công ở thể loại: Tiểu thuyết và kịch. * Nguyễn Huy Tưởng thành công ở những thể loại nào? Kể tên một số tác phẩm tiêu biểu? - Những tác phẩm chính: + Kịch: Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946) ... + Tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì (1942), Sống mãi với thủ đô (1961) .... * Văn phong của Nguyễn Huy Tưởng có đặc điểm gì? Giải thưởng lớn nhất trong cuộc đời nhà văn là giải thưởng nào? - Văn phong: Vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc. - Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. 2. Tác phẩm: * Kịch Vũ Như Tô được sáng trong hoàn cảnh như thế nào? a. Hoàn cảnh ra đời: Viết về thời điểm khoảng 1516 - 1517 nhân một sự kiện xảy ra ở Thăng Long. * Em hãy tóm tắt tác phẩm? b. Tóm tắt: SGK 3. Văn bản: Thuộc hồi V( một cung cấm) của vở kịch. * Nêu vị trí, xuất xứ của văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài? 4. Thể bi kịch: Là một thể của loại hình kịch ( đối lập với hài kịch) * Thử nêu hiểu biết của em về thể bi kịch ? - Xung đột trong bi kịch được tạo dựng 23 https://tophanoi.vn/
từ những mâu thuẫn không thể giải quyết được, mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến “sự diệt vong những giá trị quan trọng” - Nhân vật chính của bi kịch thường là những anh hùng; những người có tài năng nhưng lầm thời lỡ thế.. Hoạt động 3: Đọc văn bản II. Đọc văn bản: 1. Giọng đọc: * Giáo viên tổ chức cho học sinh chuyển văn bản thành kịch: - HS đọc theo vai nhân vật. - Dựa vào chỉ dẫn sân khấu để thể hiện giọng đọc cho phù hợp: - Mộthọc sinh trong vai trò MC đồng thời là người dẫn, dẫn dắt đểđi vào vở diễn. + Giọng Đan Thiềm đầy lo lắng, cứng cỏi, đau đớn. - Nhữnghọc sinh ở 4 tổđược phân công diễn kịch, diễn lần lượt theo trình tự từng lớp kịch (10 phút). (Khi diễn, chú ý thể hiện tính cách nhân vật, xung đột, hành động kịch và bài học giáo dục được rút ra.) + Giọng Vũ Như Tô băn khoăn, chất chứa những câu hỏi lớn vừa nhức nhối, vừa da diết, vừa khắc khoải, cuối cùng là đau đớn tột độ. + Giọng quân lính hỗn hào; giọng cung nữ bợ đỡ, lẳng lơ. - Học sinh còn lại thưởngthức và nhận xét. Kết thúc, giáo viên nhận xét, đánh giá cho điểm, tuyên dương cá nhân và tổ diễn tốt. * HS đọc giải nghĩa từ khó SGK. 2. Giải nghĩa từ khó: SGK- Tr 184 - 192. * Cắt nghĩa chủ đề, tư tưởng vở kịch: Qua bi kịch của Như Tô nhà văn đã phản ánh những vấn đề gì? 3. Chủ đề: Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu với lợi ích vật chất của cá nhân, dân tộc. Hoạt động 4: Đọc hiểu văn bản * Nhóm1: Cho biết các mâu thuẫn III. Đọc hiểu văn bản: 24 https://tophanoi.vn/
cơbản của vởkịch Vũ Như Tô, diễn biến và kếtquả. Hai mâu thuẫn này có quan hệ và tác động lẫn nhau không ? 1. Mối xung đột cơ bản của bi kich: a. Xung đột thứ nhất: - Đó là mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa trụy lạc của bọn tham quan bạo chúa với đời sống cơ cực, thống khổ của nhân dân lao động. * Nhóm 3: Nhận xét, bổ sung ý kiến? * Nhóm 5: Trình bày quan điểm về mâu thuẫn thứ nhất? - Cao trào đầy kịch tính: + Bạo chúa Lê Tương Dực chết trong tay những người nổi dậy. + Gian thần Nguyễn Vũ chết trong một trò hề nhạt nhẽo. * Giáo viên giảng bình và khái quát vấn đề. + Hoàng hậu và đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ. Tóm lại: Uy quyền của bạo chúa tiêu tan theo tro bụi của Cửu Trùng Đài. Tiết 2 b. Xung đột thứ hai: - Đó là mâu thuẫn giữa niềm khao khát hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với lợi ích trực tiếp và thiết thực của đời sống nhân dân. * Vì sao nhân dân không ủng hộ việc xây Cửu Trùng Đài? Thái độ của nhân dân bộc lộ điều gì? * Giáo viên liên hệ Vạn Lí Trường Thành... - Nguyên nhân của mâu thuẫn: Người nghệ sĩ thiên tài không có điều kiện sáng tạo, không thể thi thố tài năng đã mượn tay bạo chúa Lê Tương Dực, bất chấp cả khi phải trả bằng công sức, tiền bạc của nhân dân và người thợ. - Cao trào đầy kịch tính: Nhân dân đã đốt phá Cửu Trùng Đài, bắt bớ và chừng phạt Vũ Như Tô. Tóm lại: -Mâuthuẫn1: giải quyết dứt khoát theo quan điểm của nhân dân: Những kẻ * Câu hỏi phát hiện: Em có nhận xét gì về cách giải quyết mâu thuẫn của tác giả? thuộc tầng lớp thống trị tàn ác, trụy lạc 25 https://tophanoi.vn/
phảiđền tội. -Mâuthuẫn2: chưa đượcgiải quyết triệtđể: VũNhư Tô đến lúc chếtvẫn không nhận ra sai lầm của mình, còn đầy day dứt về lí tưởng, hoài bão bản thân. Chân lí chỉ thuộc về ông một nửa, một nửa thuộc về nhân dân. 2. Nhân vật kịch Vũ Như Tô: a. Con người Vũ Như Tô: * Nhóm2: Tính cách, diễn biến tâm trạng VũNhư Tô được thể hiện nhưthế nào qua thái độ, ngôn ngữ, hành động của ông ở các lớp kịch thuộc hồi V? - Là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân cho niềm khát khao say mê sáng tạo cái đẹp. - Là một nghệ sĩ có nhân cách lớn, có hoài bão lớn, có lí tưởng nghệ thuật cao cả. * Nhóm 4:Nhận xét, bổ sung ý kiến? b. Diễn biến tâm trạng bi kịch của Vũ Như Tô: - Lớp I:Ông không tin việc làm cao cả của mình lại có thể bị xem là tội ác, không thể tin sự quang minh chính đại của mình bị rẻ rúng và nghi ngờ. * Câu hỏi nếu vấn đề: Khát vọng xây Cửu Trùng Đài của Vũ Như Tô có đúng đắn và chân chính hay không? - Lớp II,III, IV: Khi nhân dân nổi loạn, Đan Thiềm báo tin nhưng ông không chịu đi vì tin vào động cơ và việc làm của mình, vẫn hy vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu. - Lớp VII, VIII: Khi ông và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị đập phá tiêu huỷ, ông mới bừng tỉnh, đau đớn kinh hoàng gấp bội. * Em có nhận xét gì về diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô? - Lớp IX: Nỗi đau ấy bộc lộ thành tiếng kêu bi thiết não nùng khắc khoải: “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài”. 26 https://tophanoi.vn/
Tiết 3 3. Nhân vật kịch Đan Thiềm: * Nhóm 6: Tính cách, diễn biến tâm trạngĐan Thiềmđược thể hiện nhưthế nào qua thái độ, ngôn ngữ, hành động của bà ở các lớp kịch thuộchồi V? a. Con người Đan Thiềm: - Là người đam mê cái tài - tài sáng tạo nên cái đẹp. Có thể quên mình để khích lệ, bảo vệ cái tài. - Là người luôn tỉnh táo sáng suốt, hiểu người hiểu đời, thích ứng với hoàn cảnh. * Em có nhận xét như thế nào về con người Đan Thiềm ? b. Diễn biếntâm trạng bi kịch trong đoạn trích: - Đau đớn nhận ra thất bại của giấc mộng lớn xây Cửu Trùng Đài. * Đan Thiềm có diễn biến tâm trạng như thế nào khi Cửu Trùng đài bị phá huỷ ? - Nhạy bén, khẩn khoản khuyên Vũ Như Tô đi trốn. - Khi thấy lời khuyên vô hiệu thì hốt hoảng đau đớn tột cùng. - Ngay cả khi đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tô không được thì buông lời vĩnh biệt: “Đài lớn tan tành! Ông cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt”. - Câu hỏi nâng cao: Cái chết của Như Tô, Đan Thiềm và sự tiêu tan của Cửu Trùng Đài có ý nghĩa như thế nào? 3. Ý nghĩa của tấn bi kịch: Cái chết của hai nhân vật, sự tiêu tan của Cửu Trùng Đài là kết quả của sự sai lầm: Coi cái tài, cái đẹp trên tất cả, quá tự tin vào ý chí và tài năng trong một thực trạng xã hội không có điều kiện để thực hiện ý chí và tài năng đó. Đó là bi kịch của sự lầm lạc. IV. Tổng kết: Hoạt động 5: Tổng kết 1. Nghệ thuật: - Ngôn ngữ giàu kịch tính. - Sáng tạo xung đột bi kịch, khắc hoạ tính cách qua xung đột căng thẳng, các lớp kịch ngắn thay đổi liên tục ... * Theo em văn bản đã đạt được những thành công gì về nghệ - Mâu thuẫn tập trung phát triển cao, 27 https://tophanoi.vn/
thuậtvà về nội dung? hành động dồn dập, đầykịch tính. - Ngôn ngữđiêu luyện, có tính tổng hợp cao, nhịpđiệu củalời thoại nhanh. - Tính cách, tâm trạng nhân vậtbộc lộ rõ nét qua ngôn ngữ, hành động. - Các lớpkịch được chuyển linh hoạt, tự nhiên, liền mạch. 2. Nội dung: - Thể hiện bi kịch của sự vỡ mộng: Đặt giấc mộng nghệ thuật vào một thực trạng xã hội tầm thường không có chỗ cho sự nảy nở tài năng. - Thể hiện thái độ của nhà văn: Trân trọng cái tài, khâm phục hoài bão, cảm thông với bi kịch nhưng không đồng tình vì Vũ Như Tô chỉ là người tài chưa phải bậc hiền tài, cái đẹp mà ông tạo ra là tuyệt mĩ mà không tuyệt thiện. - Hãy viết lại kết thúc của vở kịch theo cách nghĩ của em? Lí giải tại sao em lại viết như vậy? Hoạt động 6: Hướng dẫn học tập ở nhà ( 7/ ) * Hướng dẫn học bài: - Tiết 1: Những nét cơ bản về tác giả, tác phẩm (Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ và chủ đề tác phẩm ). - Tiết 2: Nắm được những xung đột cơ bản của vở kịch. Con người và tâm trạng của Vũ Như Tô. - Tiết 3: Con ngườivà tâm trạng của Đan Thiềm. Ý nghĩa tư tưởng của vở kịch. Chuẩn bị bài: Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản. C. Rút kinh nghiệm giờ dạy: ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... 28 https://tophanoi.vn/
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BộSách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn lớp 11, NXB Giáo dục 2006 2. Thiết kế bài học Ngữ văn 11, NXB Giáo dục 2009 3. Sách Dạy học Ngữ văn 11theo hướng tích hợp(NXB Đại học sư phạm). 4. Những vấn đềcơ bản vềchương trình và quá trình dạy học, Nguyễn Hữu Châu, NXB Giáo dục, 2005. 5. Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩnăng môn Ngữvăn lớp 11, NXB Giáo dục 2010. 6. Tài liệu bồidưỡng giáo viên Ngữvăn 11, NXB GD. 7. Hướngdẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữvăn 11, NXB GD. 8. Thiếtkế bàidạyngữvăn THPT, NXB GD. 9. Hướng dẫn học và làm bài Ngữ văn 11, NXB Đại học Quốc gia. 10. Lí luận văn học, Phương Lựu chủ biên, NXB GD. 29 https://tophanoi.vn/
30 https://tophanoi.vn/
31 https://tophanoi.vn/
32 https://tophanoi.vn/