0 likes | 9 Views
Nhu01b0 chu00fang ta u0111u00e3 biu1ebft thu00ec du1ea1y hu1ecdc Tiu1ebfng Viu1ec7t lu00e0 du1ea1y hu1ecdc tiu1ebfng mu1eb9 u0111u1ebb. Hu1ecdc Tiu1ebfng Viu1ec7t giu00fap cu00e1c em hu00ecnh thu00e0nh 4 ku1ef9 nu0103ng cu01a1 bu1ea3n: nghe, nu00f3i, u0111u1ecdc, viu1ebft. Mu00e0 phu00e2n mu00f4n Tu1eadp lu00e0m vu0103n trong mu00f4n Tiu1ebfng Viu1ec7t hu1ed9i tu1ee5 u0111u1ee7 4 ku1ef9 nu0103ng tru00ean. Mu00f4n Tu1eadp lu00e0m vu0103n lu00e0 mu1ed9t trong nhu1eefng mu00f4n hu1ecdc ru1ea5t quan tru1ecdng trong viu1ec7c ru00e8n luyu1ec7n ngu00f4n ngu1eef, tu01b0 duy. Nu00f3 gu00f3p phu1ea7n phu00e1t triu1ec3n tru00ed thu00f4ng minh, cu00e1ch suy nghu0129 linh hou1ea1t su00e1ng tu1ea1o khi du00f9ng tu1eeb. Tu1eeb u0111u00f3 hu00ecnh thu00e0nh vu00e0 phu00e1t triu1ec3n cu00e1c phu1ea9m chu1ea5t cu1ea7n thiu1ebft cho con ngu01b0u1eddi nhu01b0: cu1ea7n cu00f9, cu1ea9n thu1eadn, nu1ec1n nu1ebfp cu1ee7a cu00e1c em.
E N D
PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂUCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦNGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc LongAn, ngày 06 tháng 12 năm 2017 BÁO CÁO SÁNG KIẾN Những biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn lớp 3 I. Sơ lược lý lịch tác giả: - Họ và tên: Phạm Thị Mừng Nam, nữ: Nữ - Ngày tháng năm sinh: 19/5/1993 - Nơi thường trú: Tổ 1 - ấp Tân Hậu A1 – Tân An - Tân Châu - An Giang - Đơn vịcông tác: Trường Tiểu học B Long An - Chức vụ hiện nay: Chủ nhiệm lớp 3C - Trình độchuyên môn: Cao đẳng Tiểu học - Lĩnh vực công tác: Giáo viên Tiểu học II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: a)Tình hình: - Trường Tiểu học B Long An nằm trên địa bàn xã Long An diện tích trường khá rộng lớp học được mở rộng thu hút nhiều học sinh trên địa bàn và một bộ phận nhỏ học sinh trái địa bàn. Năm 2016-2017 xã được công nhận là xã nông thôn mới và như vậy trường cũng được công nhận là trường Chuẩn Quốc Gia. Tạo điều kiện cho sư quan tâm giúp đỡ chính quyền địa phương, của ngành trường còn được sựủng hộ nhiệt của quý cha mẹ học sinh đưa phong trào giáo dục được phát triển mạnh. b) Thuận lợi: - Với sự quan tâm của nhà trường. Các em vào học lớp 2 thì các em có đầy đủđồ dùng học tập, có một số em chuẩn bịbài trước khi đến lớp và khá thuận lợi đa số có cùng một độ tuổi trong cùng địa bàn. - Đa số các em nhà gần trường nên tạo điều kiện cho các em tỉ lệđi học đều khá cao. - Trường chuẩn bịđạt chuẩn thì cơ sở vật chất của trường tương đối khang trang, lớp học rộng rãi cũng tạo điều kiện cho các em học tập tốt. c) Khó khăn: - Phần lớn học sinh là con của nông dân nên việc quan tâm của cha mẹ còn hạn chế nên việc học của học sinh hoàn toàn dựa vào giáo viên là nhiều. Nên việc học ở nhà các em ít tự học. - Khi đến môn Tập làm văn các em đọc đề một cách qua loa chứ các em không phân tích đềkĩ nên các dễ bị lạc đề. - Ngay từđầu năm học, các em được làm quen với đoạn văn và được rèn kỹnăng viết đoạn văn từ5 đến 7 câu. Khi làm bài các em thì có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm chưa đảm bảo về số câu hoặc viết không đủ ý. -Tên sáng kiến:Những biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn lớp 3 - Lĩnh vực: Chuyên môn III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến: 1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến. Trang 1 https://baigiang.edu.vn/
Trong quá trình nhận lớp thì thực tế học sinh lớp tôi còn một số em làm tập làm văn khi làm bài còn lúng túng, chưa đạt yêu cầu khi làm bài, lặp lại từ và dùng từ sai. Các em rất sợ học phân môn này. Mà môn tập làm văn vừa giúp các em trao dồi ngôn ngữ khi giao tiếp, vừa giúp việc dạy tốt môn tập làm văn là điều cần thiết mà là giáo viên rất cần quan tâm đến. Năm học 2017 –2018 tôi được phân công dạy lớp 3C. Với 31 học sinh. Do điều kiện hoàn cảnh sống còn khó khăn cha mẹcác em đều làm nông nên việc chị dẫn, nhắc nhở các em còn chưa được quan tâm nhiều. Còn hay phó mặc cho nhà trường và giáo viên. Nên trong giờ học Tiếng Việt đặt biệt là môn tập làm văn thì chất lượng làm bài còn chưa cao. Những tuần đầu vào lớp tôi vừa dạy vừa ổn định nề nếp và xem chất lượng học của lớp như thếnào và đi tìm hiểu tình hình học tập của từng em và cùng trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp dưới. Từđó đểcó cơ sở nắm rõ học lực của lớp. Và tôi đã nắm tình hình đầu năm học các em như sau: Học sinh Hoàn thành Học sinh chưa Hoàn thành Năm học Sốlượng 21 Tỉ lệ (%) Sốlượng 70% Tỉ lệ(%) 30% 2016-2017 9 2017-2018 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến Như chúng ta đã biết thì dạy họcTiếng Việt là dạy học tiếng mẹđẻ. Học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kỹnăng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Mà phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụđủ 4 kỹnăng trên. Môn Tập làm văn là một trong những môn học rất quan trọng trong việc rèn luyện ngôn ngữ, tư duy. Nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ linh hoạt sáng tạo khi dùng từ. Từđó hình thành và phát triển các phẩm chất cần thiết cho con người như: cần cù, cẩn thận, nền nếp của các em. Mục đích, yêu cầu dạy môn Tập làm văn là trang bị cho học sinh về kiến thức và rèn luyện các kỹnăng làm văn và nó cũng góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc và hình thành tính cách cho học sinh Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều phân môn trong môn Tiếng Việt. Đểlàm được một bài văn không những học sinh phải sử dụng cả bốn kỹnăng: nghe – nói –đọc – viết mà còn phải vận dụng các kỹnăng về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. 21 67,74% 10 32,25% Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. * Nguyên nhân dẫn đến học sinh không thực hiện tốt môn Tập làm văn : - Vì phụ thuộc vào sách giáo khoa quá nhiều nên giáo viên quá bám sát nội của dung sách mà quên đi tình hình thực tế, không chú ý đối tượng học sinh thuộc trình độ nhận thức khác nhau. - Quy tắc bài học giáo viên trang bị cho học sinh còn áp đặt sẵn, không để các em tự chiếm lĩnh qua các thao tác tựsuy nghĩ. Nên các em làm bai còn lan mang, cẩu thả. Trang 2 https://baigiang.edu.vn/
- Giáo viên hay sợ học sinh làm không được nên đã gợi ý gần hết bài, không để học sinh tư duy. - Học sinh ít được luyện đọc nhiều loại sách khác nhau khi ở nhà kể cảđi học nên ngôn ngữ dùng từ còn hạn chế.Vì vậy, cứhay làm bài không được hay, kể cảcòn làm sai đề. Từ những nguyên nhân trên là một giáo viên tôi cũng băn khoăn làm thếnào để các em có thểđạt được mục tiêu đề ra. Tôi cố gắng tìm ra phương pháp dạy phù hợp với các đối tượng đểđạt hiệu quả cao nhất. Đó cũng là lý do để tôi chọn nội dung sáng kiến “Những biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn lớp 3”. 3. Nội dung sáng kiến a) Tiến trình thực hiện Ngay từlúc đầu nhận lớp tôi đã đề ra mục đích yêu cầu nhằm dạy dỗ các em theo mục tiêu đào tạo. Việc dạy cho học sinh nắm được cách nghe, kể lại được nội dung câu chuyện và kể hay nói, viết về một chủđè có hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp 3 là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹnăng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để biết kể lại câu chuyện đã nghe hay làm bài văn kể hay nói, viết về một chủđề cho trước có hiệu quả. Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục đích nghiên cứu trong đề tài này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: Tìm hiểu các bài tập về nghe, kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủđề có trong chương trình tập làm văn lớp 3. Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của hoc sinh về phân môn Tập làm văn lớp 3 ởtrường tiểu học hiện nay. Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập làm văn ở lớp 3 với dạng bai: Nghe- kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủđề Để việc dạy học đạt hiệu quả, ngay từlúc đầu, tôi đã khảo sát và theo dõi việc làm bài của học sinh, nhưng chất lượng không cao. Từđó, tôi lên kế hoạch phânh hóa ngay với các em hoàn thành và chưa hoàn thành nhằm nắm rõ năng lực học tập của các em. Lớp tôi có các em như sau: Nghĩa, Nam, Thái, Ý, Trọng, Tuyết, Hạnh, Ly, Khang, Nhi, chiến, Vy, Trân. Là những em viết bài tập làm văn còn yếu. Các em hay sợđến tiết tập làm văn. Các em hay viết lung tung, viết lại câu hỏi, sai nhiều lỗi chính tả, lời văn rời rạc. Thấy vậy tôi luôn động viên khuyến khích các em đểcác em chăm học, tích cực viết bài, các em tự tin vào khảnăng của mình để sử dụng ngôn ngữtrong làm bài thì bài văn sẽ hay hơn. Tôi cũng tìm hiểu cách đọc của các em qua giờ tập đọc hay độ viết sai lỗi là bao nhiêu qua tiết chính tả của các em. Khi đó kịp thời khắp phục những lỗi sai của các em cũng tạo tiền đềcho các em văn sau này không còn sai nữa. b) Thời gian thực hiện: Thì chúng ta đã biết, trong chương trình sách giáo khoa môn Tiếng Việt, đặt biệt là môn Tập làm văn xuất hiện xuyên suốt từđầu năm cho đến cuối năm học. Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ phong phú là hết sức cần thiết và phải được thực hiện từđầu năm học. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu, tôi đặc biệt chú trọng và quan tâm đến việc hướng dẫn và rèn luyện cho các em cách nhận biết việc sử dụng ngôn ngữ và từ sao cho phù hợp Trang 3 https://baigiang.edu.vn/
và phong phú hơn. Những biện pháp trên đã được tôi áp dụng từnăm 2016 – 2017 cho đến năm học này và nhận được nhiều kết quả khả quan. c) Những biện pháp và quá trình tổ chức: c.1 Trang bị kiến thức cho học sinh luôn chú trọng việc lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt: Với thể loại nói – viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3, học sinh được rèn luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở sách giáo khoa và viết một đoạn văn ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủđề: nói vềquê hương, gia đình, người lao động, kể vể lễ hội, trận thi đấu thể thao, bảo vệmôi trường… Do khảnăng tư duy của học sinh còn hạn chế, óc quan sát, trí tưởng tượng không phong phú lại chưa chịu khó rèn luyện, nên đa số các em chỉ biết trình bày đoạn văn một cách hạn hẹp theo nội dung đã gợi ý. Từđó bài văn nói – viết nghèo nàn về ý, gò ép, thiếu sự hồn nhiên. Ví dụ“Kể lại việc em đã làm để bảo vệmôi trường”, các em chỉ kể“ trên đường đi học, em thấy một cây xanh còn non bịngã, em đỡcho cây đứng dậy. Trưa tan học về thấy cây xanh tốt, em rất vui mừng vì đã bảo vệmôi trường”. Bên cạnh đó, đôi lúc các em còn trình bày lệch lạc, thiếu chính xác do ít kiến thức về vốn sống. Việc sử dụng và mở rộng vốn từ còn nhiều hạn chế, các em chưa chú ý cách sử dụng từ hoặc trau chuốt thế nào cho từđó hay hơn trong câu văn. Có một số từdo được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành quen thuộc, các em vẫn vô tư sử dụng trong bài văn của mình. Như vậy, để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt để từđó giúp các em trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết Luyện từ và câu có nội dung phù hợp tiết Tập làm văn sắp học; giáo viên cần dặn dò hướng dẫn học sinh quan sát tìm hiểu kĩ đối tượng cần nói đến và ghi chép cụ thể hình ảnh, hoạt động ấy vào sổ tay; với những sự việc hoặc hoạt động các em không được chứng kiến hoặc tham gia, giáo viên khuyến khích các em quan sát qua tranh ảnh, sách báo, trên tivi,…hoặc hỏi những người thân hay trao đổi với bạn bè. Khi được trang bị những kiến thức cơ bản như thế, học sinh sẽ có những ý tưởng độc lập từđó các em có thểtrình bày được bài văn chân thực, sinh động và sáng tạo. Trong việc trang bị kiến thức cho học sinh, giáo viên không nên áp đặt các em vào một khuôn mẫu nhất định như chỉđịnh học sinh phải quan sát một bức tranh, một sự vật, con người hay một công việc cụ thểnhư thế sẽ hạn chếnăng lực sáng tạo của các em. Vì vậy, với bất cứ một đề tài nào của một tiết Tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh liên hệ mở rộng đểcác em phát huy được năng lực sáng tạo trong bài văn của mình. c.2. Tìm hiểu nội dung đề bài: c.2.1 Xác định rõ yêu cầu các bài tập: Ở mỗi đề tài của loại bài Tập làm văn nói – viết, giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp học sinh tựxác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện tập. Trang 4 https://baigiang.edu.vn/
c.2.2 Nắm vững hệ thống câu hỏi gợi ý: Sách giáo khoa lớp 3, bài Tập làm văn nói – viết thường có câu hỏi gợi ý, các câu hỏi này sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn; học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm vững nội dung từng câu; từđó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủý, đúng từ, đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chếđược việc trình bày ý trùng lặp, chồng chéo, không có sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn. c.2.3 Tìm hiểu các câu gợi ý: Trước khi học sinh thực hành bài tập luyện nói, giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu cầu, các từ ngữ này có thể là các từ khó hoặc từđịa phương. Nếu là từđịa phương, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng từđịa phương mình để học sinh làm bài dễdàng hơn. c.2.4 Chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ: Trong các câu gợi ý có một số câu dài hoặc ngắn gọn khiến học sinh lúng túng khi diễn đạt ý, do đó ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo. Giáo viên cần chia thành nhiều câu gợi ý nhỏđể giúp các em có những ý tưởng phong phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có nhiều học sinh được rèn kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên dễ dàng sửa chữa sai sót cho học sinh. Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏđược thái độ, tình cảm, ý kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá trình đó giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được những câu trả lời đúng cách ứng xử hay.Từđó giúp học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh có cảm xúc. Trên cơ sởđó bài luyện nói của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. c.3. Hướng dẫn tìm ý: Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa sốbài văn của học sinh lớp 3 có ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong khuôn khổ nhất định. Giáo viên cần giúp các em tìm ý để thực hành một bài văn nói – viết hoàn chỉnh về nội dung với những ý tuởng trong sáng giàu hình ảnh và ngây thơ chân thật. Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽhướng dẫn học sinh một cách chặt chẽ từ sựliên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Từđó học sinh dễ dàng tìm ý và diễn đạt bài văn rõ ràng, mạch lạc hơn.Trong một tiết Tập làm văn với một đềtài nào đó, học sinh có thể quên một số hình ảnh, sự việc…mà các em đã quan sát hoặc tìm hiểu qua thực tế. Giáo viên khơi gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏcó liên quan đến yêu cầu bài tập, phù hợp thực tếvà trình độ học sinh để các em dễ dàng diễn đạt. Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính xác theo các gợi ý; bài làm như thếtuy đủý nhưng không có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng Trang 5 https://baigiang.edu.vn/
đề bài giáo viên nên có những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, để từđó học sinh biết trình bày bài văn giàu hình ảnh, sinh động, sáng tạo. c.4. Hướng dẫn diễn đạt: Như đã nói, do tâm lí lứa tuổi nên bài văn thực hành của học sinh lớp Ba tuy có ý tưởng, nhưng vẫn còn nhiều sai sót về diễn đạt như: dùng từchưa chính xác, ý trùng lắp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết nhau nên trình bày chưa rõ ràng mạch lạc. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo viên phải hết sức chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thểđể học sinh làm cơ sở lắng nghe bạn trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và những hạn chế của bạn để góp ý, sửa sai. c.4.1 Hướng dẫn sửa chữa từ: Trường hợp học sinh dùng từchưa chính xác như các từ ngữchưa phù hợp, nghĩa từ chưa hay hoặc từ thông dụng địa phương…ví dụ: ‘thầy em rất chăm chỉ trong giảng dạy ”, “ cô em thường bận đồxanh ”… khi học sinh phát hiện sai sót đó, giáo viên giúp các em sửa chữa thay đổi từ phù hợp. Đối với từ học sinh dùng trùng lặp nhiều lần trong một câu, ví dụ: “Bác ba là người hàng xóm của em, bác ba rất tốt với em, bác ba luôn giúp em học bài…”, giáo viên hướng dẫn học sinh lượt bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế. Trong trình bày bài văn, học sinh vẫn thường dùng từ ngôn ngữnói, giáo viên nên hướng dẫn học sinh thay thế bằng từ ngôn ngữ viết trong sáng hơn. c.4.2 Hướng dẫn sửa chữa đặt câu: Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sửa chữa bổsung ý vào cho đúng; câu dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần cho học sinh sửa sai lượt bỏý dư ý trùng lắp. Giáo viên khuyến khích học sinh tự sửa câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn. c.4.3 Hướng dẫn sửa chữa đoạn văn: Với mỗi chủđề của bài Tập làm văn nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo gợi ý đã cho thì bài văn của các em xem như hoàn chỉnh. Nhưng để có một đoạn văn mạch lạc rõ ràng, ý tưởng liên kết chặt chẽnhau thu hút được người đọc; giáo viên cần giúp các em biết viết đoạn văn có mở và kết đoạn, biết dùng từ liên kết câu, dùng câu liên kết đoạn một cách hợp lí và sáng tạo. Ví dụ với gợi ý kể về trận thi đấu thể thao, từng gợi ý phần mởđoạn có rời rạc, giáo viên có thểhướng dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể không theo trình tự từng ý nhưng vẫn đảm bảo nội dung và làm cho phần mởđoạn sinh động lôi cuốn người đọc hơn. Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mởđầu đoạn văn để nói hoặc kể một cách sáng tạo. Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như: “đầu tiên”; “kế Trang 6 https://baigiang.edu.vn/
tiếp”; “sau đó”; “cuối cùng”… đểđoạn văn gắn kết chặt chẽ liên tục từng ý với nhau. Do đặt điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học sinh không đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong đoạn văn viết;vì vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn dễ hiểu, có thể cho học sinh hoàn thành làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn đoạn văn viết của mình. Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong phú sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế còn vấp phải trong bài viết. Từđó học sinh có sựsuy nghĩ để sửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết của mình một cách hợp lí và sáng tạo. c.5.Dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện” ; Dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủđề” giáo viên cần tiến hành: c.5.1. Dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện” Đây là một đạng đềkhá khó trong chương trình tập làm văn lớp 3. Ngữ liệu học tập của dạng đề này phần lớn là các chuyện vui nên năm học này. Trong sách giáo viên, hầu hết các tiết dạy dạng đềnày được triển khai theo cùng một hướng như sau: - Giáo viên kể chuyện 2 hoặc 3 lần - Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý chi tiết để học sinh làm điểm tựa nhớ lại nội dung truyện. - Một vài học sinh kể: Học sinh kểtheo nhóm ; Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp. Để hoạt động của tiết học dạng đềtrên đa dạng hơn, học sinh vui và tích cực học hơn, giờ học có hiệu quảhơn nhất là những học sinh hoàn thành- chưa hoàn thành. Tôi xin đề nghị thêm một sốphương án dạy học như sau: Cách 1: - Cho học sinh xem tranh và đoán nội dung truyện. Giáo viên ghi vài điều cơ bản (nhân vật, một vài sự kiện) mà học sinh đoán được lên bảng (cho học sinh làm viẹc toàn lớp hay nhóm ). - Học sinh nghe giáo viên kể chuyện hai lần. - Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh những điều đã đươc ghi trên lớp (cho học sinh làm vào phiếu học tập). - Học sinh trao đổi về một vài điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện. - Học sinh kể lại chuyện theo cặp ( theo nhóm) - Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể) - Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung. Trang 7 https://baigiang.edu.vn/
Ví dụ: Nghe kể lại câu chuyện: Dại gì mà đổi (TV tập 1A) Nội dung câu chuỵên trong Sách giáo viên như sau : “Có một cậu bé bốn tuổi rất nghịch ngợm. Một hôm, mẹ cậu doạ sẻđổi cậu để lấy một đứa trẻ ngoan về nuôi. Cậu bé nóí: - Mẹ sẽ chẳng đổi được đâu! Mẹ ngạc nhiên hỏi: - Vì sao thế? Cậu bé trả lời: - Vì chẳng ai muốn đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm đâu, mẹạ”. 1.Chuẩn bị - Tranh vẽở SGK phóng to - Phiếu bài tập: Em hãy xem tranh và đoán thử xem nội dung chuyện theo bảng sau và điều chỉnh lại khi nghe chuyện . Câu hỏi gợi ý a. Thửđoán nội dung b. Điều chỉnh nội dung khi nghe kể Câu chuyện có mấy nhân vật ..................................... ..................................... Họđang làm gì? ........................................ ...................................... ....................................... ....................................... ....................................... ....................................... Người mẹđã nói với con điều gì? người con trả lời mẹ ra sao? ...................................... ..................................... ..................................... ..................................... ..................................... ..................................... Kết quả câu chuyện như thế nào? ...................................... ..................................... ...................................... ...................................... 2.Cách tiến hành: - Giáo viên treo tranh vẽ trên bảng, ban học tập phát phiếu học tập cho các nhóm, cho học sinh đọc yêu cầu của bài tập ghi trên phiếu và tiến hành làm bài tập a. - Giáo viên theo dõi và gọi đại diện các nhóm nêu một số ý và giáo viên ghi lên bảng. Trang 8 https://baigiang.edu.vn/
- Giáo viên kể chuyện 2 lần ( nội dung truyện có trong SGV như trên) học sinh đối chiếu giữa nội dung truyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán đểđiều chỉnh ở phần b của bài tập. Ví dụ : Câu hỏi gợi ý a. Thửđoán nội dung b. Điều chỉnh nội dung khi nghe kể Câu chuyện có mấy nhân vật Chuyện có hai nhân vật Chuyện có hai nhân vật Họđang làm gì? Họđang nói chuyện với nhau Người mẹ dọa sẽđổi cậu bé để lấy một đưa con ngoan về nuôi. Người mẹđã nói với con điều gì? người con trả lời mẹ ra sao? Người mẹ nói với con phải ngoan, nghe lời mẹ. Người con ngồi im lặng. Người mẹ nói sẽđối con để lấy đứa con ngoan vềnuôi. Người con trả lời với mẹ là mẹ chẳng bao giờđổi được đâu vì không ai dại gì mà đổi đứa con ngoan lấy đưa con nghịch ngợm cả. Kết quả câu chuyện như thế nào? Người con không nghe lời mẹ Dại gì mà đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch. Giáo viên bao quát lớp, kèm cặp thêm cho học sinh chưa hoàn thành - Cho học sinh trao đổi về một điều thú vị trong truyện hay nêu ý nghĩa truyện: câu chuyện buồn cười ở chổ nào? (Truyện buồn cười vì cậu bé nghịch ngợm mới 4 tuổi cũng biết rằng không ai muốn đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm.) Giáo viên chốt lại nội dung: Không ai dại gì mà đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm cả. - Cho học sinh kể lại chuyện theo nhóm. - Đại diện nhóm kể lại trước lớp. Cả lớp nhận xét bổ sung, giáo viên nhận xét chung. Cách 2: Giáo viên kể một phần đầu của câu chuyện sau đó đặt câu hỏi đề nghị học sinh đoán sự kiện gì có thể xảy ra tiếp theo. Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng. - Học sinh nghe giáo viên kể tiếp rồi trao đổi đối chiếu điêu được nghe với điều đã đoán để điều chỉnh phần được ghi trên bảng. - Giáo viên kể lại chuyện 2 lần đề nghị học sinh nêu thêm một số tình tiết nữa phần đầu của truyện( ở hoạt động này giáo viên có thể dùng thẻ từ ghi các sự kiện thể hiện trong phần đầu của ttruyện và học sinh chọn đưa vào dàn ý đã có trên bảng). Trang 9 https://baigiang.edu.vn/
- Học sinh trao đổi vềý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị trong chuyện. - Học sinh kể lại chuyện( theo nhóm lớn hay đôi) - Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp. - Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung và nhận xét chung. Ví dụ minh hoạ: Nghe kể lại chuyện: Dại gì mà đổi. ( Tiếng Việt tập 1A) Cách 3: - Giáo viên kể chuyện lần 1 kết hợp hướng dẫn học sinh nắm các nhân vật có trong truyện. - Giáo viên kể lần 2, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong các khung còn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu (có thể cho học sinh làm việc theo nhóm hay theo cặp đôi) có thểđánh số hay vẽmũi tên. Giáo viên có thểđể trống tất cả các ô hoặc viết sẵn ý trong một vài ô. Các ô khác học sinh nghe rồi hoàn thành. Sơ đồ trình tự câu chuyện như sau: Trên xe buýt Anh thanh niên Tay ôm mặt Cháu không nỡ nhìn Bà cụ Sau khi hoàn thành sơ đồ trình tự câu chuỵện, học sinh trao đổi sửa chữa. - Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm (hay cặp). - Đại diện nhóm kể lại trước lớp - Học sinh trao đổi ý nghĩa câu chuyện, cả lớp theo dõi nhận xét, giáo viên bổ sung nhận xét chung. Ví dụ minh hoạ: Nghe - kể lại chuyện: Không nỡ nhìn.(Tiếng Việt Tập 1A - Tr.61) Nội dung câu chuyện trong sách giáo viên như sau: “Trên một chuyến xe buýt đông người, có anh thanh niên đang ngồi cứ lấy hai tay ôm mặt. Một bà cụ ngồi bên thấy thế bèn hỏi: Trang 10 https://baigiang.edu.vn/
- Cháu nhức đầu à? Có cần dầu xoa không? Anh thanh niên nói nhỏ: - Không ạ. Cháu không nỡ nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.” - Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm. - Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp. - Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung. - Cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của chuyện: Anh thanh niên trên chuyến xe buýt không biết nhường chổcho người già, phụ nữ mà lại che mặt và giải thích rất buồn cười là không nở nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng. - Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh niên trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì? - Giáo viên nhận xét chung . Cách 4: Giáo viên kể chuyện một lần và đề nghị học sinh cho biết: câu chuyện có mấy nhân vật? giáo viên phác hoạ hình các nhân vật đó lên bảng (băng cách vẽô tròn và trên đó ghi tên nhân vật) Ví dụ: Nghe kể lại chuyện “Người bán quạt may mắn” nổi tiếng chữđẹp nghỉ mát phàn nàn quạt ế thiu thiu ngủ Ông Vương Hi Chi Bà lão bán quạt lấy bút mực ra viết vào quạt bắt đền ông Vương thu xếp bán quạt chạy bút mực ra đi - Học sinh nghe giáo viên kể chuyện lần 2 rồi viết xung quanh nhân vật một số từ hay cụm từ thể hiện hành động hay suy nghĩ của nhân vật (xây dựng mạng câu chuyện). Nếu học sinh có khó khăn thì giáo viên đặt một số gợi ý. - Học sinh trao đổi điều chỉnh mạng câu chuyện (theo nhóm).Một số học sinh nhìn mạng câu chuyện rồi kể lại chuyện trước lớp. - Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại chuyện theo cặp (hay nhóm). Học sinh thảo luận theo ý nghĩa của chuyện. Trang 11 https://baigiang.edu.vn/
Ví dụ minh hoạ : Nghe kể lại chuyện: Người bán quạt may mắn (Tiếng Việt Tập 2A) Nội dung câu chuyện ởsách giáo viên như sau: “ Vương Hi Chi nổi tiếng là người viết chữđẹp ở Trung Quốc thời xưa. Một lần, ông đang ngồi nghỉmát dưới gốc cây thì một bà già bán quạt cũng đến nghỉ. Bà lão phàn nàn là quạt bán ế, chiều nay cả nhà bà sẽ phải nhịn cơm. Rồi bà ngồi tựa vào gốc cây, thiu thiu ngủ. - Trong lúc bà lão thiếp đi, ông Vương lẳng lặng lấy bút mực ra viết chữ, đềthơ vào những chiếc quạt. Bà lão tỉnh dậy thấy cả gánh quạt trắng tinh của mình đã bị ông già kia bôi đen lem luốc. Bà tức giận bắt đền ông. Ông giờ chỉcười, không nói rồi thu xếp bút mực ra đi. - Nào ngờ, lúc quạt trắng thì không ai mua, giờ quạt bịbôi đen thì ai cũng cầm xem và mua ngay. Chỉ một loáng gánh quạt đã bán hết. Rồi người mua mách nhau đến hỏi rất đông. Nhiều người còn hỏi mua với giá ngàn vàng. Bà lão nghe mà tiếc ngẩn tiếc ngơ. Trên đường vềbà nghĩ bụng: có lẽ vịtiên ông nào đã cảm thương cảnh ngộnên đã giúp bà bán quạt chạy như thế”. Giáo viên cần giúp cho các em hiểu có nhiều cách diễn đạt đểbài làm các em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủđộng hình thành kỹnăng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Giáo viên không nên áp đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹnăng mới được hình thành. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải kiên nhẫn, lặp lại kiến thức cho học sinh trong suốt quá trình học, giúp học sinh có nền móng tốt cho việc học môn Tập làm văn ở các lớp trên. c.5.2. Dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủđề. *Mục đích: Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹnăng diễn đạt bằng lời nói( viết) về một chủđềnào đó: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình ; Kể về một buổi thi đấu... Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tưòng thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ. Các kiểu đề này chủ yếu được tiến hành theo một trình tựnhư sau: - Giáo viên giới thiệu bài: - Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài: + Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập + GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK giải thích cho học sinh cách làm bài. + Một hoc sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét Trang 12 https://baigiang.edu.vn/
- Học sinh tập nói theo (nhóm lớn). - Đại diện một sốnhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét. - Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết. Theo tôi khi dạy dạng đềnày ngoài phương án được nêu trên trong sách giáo viên Giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa để giúp học sinh tìm kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập. Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể- Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủđộng và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng và ngôn từtrong các bài đọc theo chủđềmà các em đã được học trong SGK Ví dụ 1: Đề bài: Nói vềquê hương em (Tiếng Việt Tập 2A) 1. Chuẩn bị: Phiếu học tập a..Hoàn thành bảng dưới đây Tên bài đọc Quê hương là... Chi tiết làm em xúc động nhất Giọng quê hương ...................................... .............................................................. ...................................... .............................................................. Quê hương ..................................... ............................................................... ..................................... .............................................................. Đất quý, đất yêu ..................................... ............................................................. ..................................... ............................................................. Vẽquê hương ..................................... ............................................................... ..................................... .............................................................. Chõ bánh khúc của dì tôi ..................................... .............................................................. ..................................... .............................................................. b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất đồng ý. Qua các bài đọc trên em thấy quê hương: + Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình. Trang 13 https://baigiang.edu.vn/
+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên. + Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm. + Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớthương. c.Các em hãy nghĩ vềquê hương mình: Quê em ởđâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ởquê hương? Cảnh vật đó có gì đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào? Ví dụ 2: Dạy bài : Kể vềgia đình (Tiếng Việt tập1B) Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹnăng nói : Kểđược một cách đơn giản vềgia đình mình với một người bạn mới quen. 1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì?Tính tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình? 2.Cách tiến hành : Hoạt động 1: - Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể vềgia đình mình cho bạn mới quen biết. - Học sinh tập trung động não nghĩ vềgia đình mình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình. - Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng. - HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bìa phụ, ghi vào khung chủđề cụm từ“gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủđềđó. Ví dụ: Làm ruộng anh,chị học sinh Ông ,bà Gia đình mình bố,mẹ Công nhân em hạnh phúc Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự 1,2,3... Trang 14 https://baigiang.edu.vn/
- GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh chưa hoàn thànhđểgiúp các em điều chỉnh. Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói - GV gọi 2 em đại diện kể vềgia đình mình trước lớp. Ví dụ: Gia đình tớcó 5 người : Bố mẹ tớ, anh Thắng, chị Hà và tớ. Bố tớ là công nhân lâm trường. Mẹ tớở nhà làm ruộng. Anh Thắng, chịHà đều là học sinh. Mẹ tớ rất hiền. Những lúc nhàn rỗi, mẹ tớthường kể chuyện cho tớ nghe. Lúc nào về nhà, bốcũng mua quà cho anh em. Gia đình tớ rất hạnh phúc. - Cả lớp nhận xét, GV sữa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu sai). Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 3, chúng ta sử dụng bản đồtư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa . Bản đồtư duy là một phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của từng chủđề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồtư duy cần phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủđềvà đảm bảo tính thẩm mĩ đểqua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn. Ví dụ khi dạy đề bài: Nói vềquê hương em (Tiếng Việt Tập1B), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồtư duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa: Qua bản đồtư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu( các từ ngữ phục vụcho đềbài) để hoàn thành bài nói vềquê hương dễdàng hơn. Ví dụ1: Quê hương em ở thành phố. Ởnơi đây có nhiều nhà cao tầng, xe cộđông đúc, náo nhiệt. Những ngày nghỉ, em thường được bố mẹ dẫn đi xem công viên, đi siêu thịăn kem thật là thích. Em rất yêu quê hương của mình. Trang 15 https://baigiang.edu.vn/
Ví dụ 2: Nông thôn là nơi em sinh ra và lớn lên. Quê hương em thật là đẹp. Ởnơi đây có những con đò chạy trên những dòng sông. Đầu làng có giếng nước trong veo, cây đa cổ thụ tỏa bóng che mát cả một vùng. Những ngày hè nóng nực, em thường được bố mẹ dẫn đi tắm mát dưới dòng sông. Em yêu quý nơi này biết bao. Hoặc khi dạy bài: Kể vềgia đình (Tiếng Việt tập1B), giáo viên thực hiện các bước như sau: -Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể vềgia đình mình cho bạn mới quen biết. - Học sinh tập trung động não nghĩ vềgia đình mình và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình. - Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồtư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh biết một số từ ngữliên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồtư duy, tựsuy nghĩ và hồi tưởng. - Học sinh ghi vào giấy nháp vềgia đình mình. - Giáo viên gọi một vài em kể vềgia đình mình cho cả lớp nghe. - Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung. Trang 16 https://baigiang.edu.vn/
V. Hiệu quảđạt được 1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến: 1.1. Trước khi áp dụng sáng kiến: Khi chưa áp dụng sang kiến thì lớp số học sinh chưa hoàn thành khá cao đối với môn Tiếng Việt đặt biệt là môn Tập làm vănnhư học sinh chưa hoàn thành sốlượng: 24 em; tỉ lệ: 77,42%. Khi mới vừa nhận lớp tôi quan sát việc thực hiện bài làm của các em đối với môn Tập làm văn. Các em làm bài còn cẩu thả, không đúng yêu cầu, viết lan man và khi viết đảm bảo về sốcâu nhưng viết không đủý. Chính vì lí do đó dẫn đến các em không thích thú học tập làm văn hay rất sợđến tiết này. 2.2. Sau khi áp dụng sáng kiến: Qua thực nghiệm đề tài, sau khi sử dụng các phương pháp trên tôi nhận thấy chất lượng học Tiếng Việt đặt biệt là tập làm văn của HS tiến bộ rõ rệt. Các em thích thú, háo hức, chờđợi đến phân môn Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cô giáo. Hầu hết các em kểđược theo yêu cầu, lời nói tròn câu hơn trước. Kĩ năng giao tiếp của HS phát triển tốt hơn. * Đối với học sinh: Kết quảthu được: Năm 2016 -2017: Học kì Sốlượng Tỉ lệ Cuối học kì I 24 77,42% Cuối năm học 31 100% Từ các số liệu trên, tôi thấy rằng học sinh lớp tôi học môn Tiếng Việt đặt biệt là môn Tập làm văn có tiến bộ nhiều so với đầu năm học, các em dùng từ ngữphong phú hơn, viết bài mạch lạc hơn, các em còn sang tạo trong bài viết của mình. Số học sinh hoàn thành được tăng lên, tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành giảm rõ rệt. Tôi thấy rằng việc sử dụng các biện pháp trên là rất quan trọng. * Đối với giáo viên: - Có nhiều thời gian để mở rộng kiến thức cho học sinh hơn, dễdàng hướng dẫn học sinh tiếp thu bài sau mỗi giờ lên lớp. - Có nhiều thời gian tập chung vào các em chưa hoàn thành nhiều hơn. Phát huy tích cực trong việc dạy học - Giúp cho tôi có thời gian quan tâm hết tất cả học sinh trong lớp được chu đáo hơn trong khi giảng dạy. 2. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến * Đối với học sinh: - Các em có tinh thần học hơn trước, không còn lo sợ khi mỗi lần đến tiết Tập làm văn. - Học sinh tích cực học tập hơn so với đầu năm, đặt biệt là với các em chưa hoàn thành. - Các em giao tiếp mạnh dạn hơn trên lớp và kể ngoài lớp học. * Đối với giáo viên: - Qua quá trình nghiên cứu tôi thấy được nhiều điều bổ ích cho nghiệp vụ chuyên môn và cũng đáp ứng được yêu cầu thực tế trong giảng dạy - Giúp tôi chủđộng hơn trong việc dạy. Học sinh hoàn thành Học sinh chưa hoàn thành Sốlượng 7 Tỉ lệ 22,58% Trang 17 https://baigiang.edu.vn/
- Tôi cũng thấy tựtin hơn mỗi khi lên lớp giảng dạy. VI. Mức độảnh hưởng 1. Khảnăng áp dụng giải pháp: Sau khi hoàn thành đề tài này, tôi trình bày những kinh nghiệm của mình cùng các đồng nghiệp trong khối. Với sự cho phép của cấp trên và các đồng nghiệp cùng khối áp dụng đề tài của tôi thử nghiệm trong quá trình lên lớp và cũng đạt kết quả khả quan. Sáng kiến này có thể áp dụng tất cảcác trường Tiểu học trong toàn tỉnh để phát huy vai trò trong chuyên môn cũng như trong giảng dạy. 2. Những điều kiện cần thiết áp dụng giài pháp: 2.1 Đối với học sinh: - Tạo sự hứng thú cho học sinh tham gia các hoạt động học tập. - Nắm vững những phương pháp mới để tạo cuốn hút học sinh say mê học môn Tập làm văn. - Tạo sự tự tin cho các em khi làm bài. - Hình thành cho các em khảnăng tư duy, tính cẩn thận, sang tạo. - Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học hơn. 2.2 Đối với giáo viên: - Giáo viên phải tận tụy với nghề. - Nhận xét bài thường xuyên. - Đánh giá, kiểm tra, động viên học sinh kịp thời. - Giáo viên cần soạn bài kỹ. - Kịp thời động viên khi các em làm bài chưa tốt. - Luôn nghiên cứu các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. - Tìm hiểu vềđặc điểm tâm sinh lý học sinh. - Phối hợp với gia đình nhắc nhở việc học của các em. - Kịp thời giúp đỡ những vướng mắc của các em khi cần. 2.3 Đối với phụ huynh: - Trong kỳ họp phụhuynh đầu năm, tôi thông báo kết quả học tập cũng như kết quả khảo sát của các em về mọi mặt nhất là việc học phân môn Tập làm văn của các em. Sau đó tuyên truyền cho phụ huynh biết về vai trò quan trọng của phân môn Tập làm văn nói riêng cũng như môn Tiếng Việt nói chung. - Phụ huynh kiểm tra và thường xuyên quan tâm sửa chữa các sai sót về bài viết cho các em. 2.4 Đối với trường: Nhà trường cần tăng cường vời cha mẹ học sinh, tìm hiểu những hoàn cảnh khó khăn kịp thời giúp đỡ con em họ. Cần tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đểđáp ứng nhu cầu giảng dạy và học. 2.5 Đối với ngành: Ngành cần tổ chức cuộc thi phong trao học môn Tập làm văn cho các em. Để phát huy năng lực của học sinh. VII. Kết luận - Trong quá trình đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học, là giáo viên phải trực tiếp giảng dạy nên phải chuẩn bị tốt bài dạy của mình. Trong giai đoạn đổi mới giáo dục như hiện nay, thì là giáo viên phải tự mình học hỏi nâng cao tay nghề, tiếp thu có hiệu quả những đổi mới phương pháp dạy thì sẽđẩy lùi sự phát triển giáo dục. Tôi nghĩ rằng, để Trang 18 https://baigiang.edu.vn/
gặt hái được nhiều thành công trong công việc đều phải có lòng say mê và tinh thần quyết tâm thực hiện. - Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với các dạng bài tập: “Nghe - kể lại chuyện”; “Kể hay nói, viết về một chủđề”, theo tôi người giáo viên phải có trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh đểcác em phát huy năng lực của bản thân mình. - Từđó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học tập đúng đắn hơn. Giúp cho các em cóhứng thú học tập cho học sinh. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân về một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn tập làm văn ở lớp 3. Phát huy vai trò học tốt của các em. Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những hạn chế, cũng rất mong được sựđóng góp ý kiến, chia sẽ nhiệt tình của các cấp trên và cùng các bạn đồng nghiệp, để sáng kiến được hoàn thiện hơn. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiến Phạm Thị Mừng Trang 19 https://baigiang.edu.vn/