1 / 23

Một số biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Chính tả cho học sinh Lớp Một

Tru1ebb em u0111u1ebfn tuu1ed5i u0111i hu1ecdc thu01b0u1eddng bu1eaft u0111u1ea7u quu00e1 tru00ecnh hu1ecdc tu1eadp bu1eb1ng viu1ec7c hu1ecdc chu1eef. u1ede giai u0111ou1ea1n u0111u1ea7u (bu1eadc tiu1ec3u hu1ecdc) tru1ebb tiu1ebfp tu1ee5c hou00e0n thiu1ec7n nu0103ng lu1ef1c tiu1ebfng nu00f3i mu1eb9 u0111u1ebb. Tu1eeb u0111u00f3 bu1eaft u0111u1ea7u du1ea1y cu00e1c em hu1ecdc chu1eef u0111u1ecdc thu00f4ng, viu1ebft thu1ea1o u0111u01b0u1ee3c lu00e0 phu1ea3i thu00f4ng qua phu00e2n mu00f4n Chu00ednh tu1ea3. Trong u0111u00f3 du1ea1y chu00ednh tu1ea3 u1edf tiu1ec3u hu1ecdc lu00e0 mu1ed9t trong nhu1eefng vu1ea5n u0111u1ec1 u0111ang u0111u01b0u1ee3c quan tu00e2m nhu1eb1m nu00e2ng cao chu1ea5t lu01b0u1ee3ng cu1ee7a mu00f4n Tiu1ebfng viu1ec7t trong nhu00e0 tru01b0u1eddng. Thu00f4ng qua viu1ec7c hu1ecdc chu00ednh tu1ea3 mu00e0 cu00e1c em nu1eafm u0111u01b0u1ee3c quy tu1eafc vu00e0 hu00ecnh thu00e0nh nhu1eefng ku1ef9 nu0103ng vu1ec1 chu00ednh tu1ea3.

Download Presentation

Một số biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Chính tả cho học sinh Lớp Một

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc PHÒNG GD&ĐT THỊ XÃ TÂN CHÂU TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN Long An, ngày 10 tháng 12 năm 2017 BÁO CÁO SÁNG KIẾN Một số biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Chính tả cho học sinh lớp Một I. Sơ lược lý lịch tác giả: - Họ và tên: Trương Thị Anh Thi Nam, nữ: Nữ - Ngày tháng năm sinh: 24/10/1981 - Nơi thường trú:ấp Long Thành, xã Long An, thị Xã Tân Châu, tỉnh An Giang. - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An - Chức vụ hiện nay: Giáo viên - Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm - Lĩnh vực công tác: Giáo viên dạy lớp II. Sơ lược đặc điểm tình hìnhđơn vị *Đặc điểm tình hình trườngtiểu học B Long An: Trường tiểu học B long An nằm ven theo bờ sông Kênh Xáng. Năm 1998 trường được xây dựng mới trên mặt bằng rộng với diện tích 4.632 mét vuông cặp theo lộ giao thông Long An- Châu Phong, toạ lạc trên tuyến dân cư thuộcấp Long Hòa, Xã Long An, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập. Dân số thuộc địa bàn trường để phổ cập 4.974 người với 1.234 hộ dân. Năm học 2017-2018. Toàn trường có 26 cán bộ, giáo viên và nhân viên. Có 411 học sinhđược chia thành 14 lớp. Đa số người dân lao động nghèo, sống bằng nghề buôn bán nhỏ, làm thuê.Địaphương được chọn là xã điểm của tỉnh trong việc xây dựng nông thôn mới. Năm 2015 xã Long An được Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang công nhận đạt chuẩn.Bên cạnh đó trường cũng có những thuận lợi và khó khăn sau: 1. Thuận lợi: Năm học 2017- 2018 tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương về “ Đổi mới căn bản và toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Được sự quan tâmcủa các cấp Uỷ Đảng, chính quyền địa phương và sựchỉ đạo chuyên môn của Phòng Giáo dục và Đào tạo. Công tác tham mưu, phối hợp thực hiện có hiệu quả nên tổ chức được nhiều hoạt động giáo dục, các phong trào thi đua, hội thi do ngành phát động, duy trì khá tốt sĩ số ở các khối lớp.Các ngành đoàn thể, ấp, Cha mẹ học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động của nhà trường.Đa số giáo viên tận tụy với nghề, tận tình trong công tác dạy và học, luôn giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.Hầu hết giáo viên đều được tham gia học tập bồi dưỡng chuyên môn và tập huấn chuẩn kiến thức kĩ năng đáp ứng được công tác giảng dạy hiện nay. 1 https://baigiang.edu.vn/

  2. 2. Khó khăn: Một bộ phận Cha mẹ học sinh còn nghèo, thường xuyên làm ăn xa nên học sinh nghỉ dài ngày ảnh hưởng chất lượng học tập.Một số giáo viên vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả chưa cao nhất là phương pháp bàn tay nặn bột, hình thức tổ chức chưa được phong phúđể nâng cao hiệu quả giảng dạy. - Tên sáng kiến:Một số biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Chính tả cho học sinh lớp Một. - Lĩnh vực: Chuyên môn III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến: Trẻ em đến tuổi đi học thường bắt đầu quá trình học tập bằng việc học chữ. Ở giai đoạn đầu (bậc tiểu học) trẻ tiếp tục hoàn thiện năng lực tiếng nói mẹ đẻ. Từ đó bắt đầu dạy các em học chữ đọc thông, viết thạo được là phải thông qua phân môn Chính tả. Trong đó dạy chính tả ở tiểu học là một trong những vấn đề đang được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng của môn Tiếng việt trong nhà trường. Thông qua việc học chính tả mà các em nắm được quy tắc và hình thành những kỹ năng về chính tả. Ngoài ra phân môn Chính tả còn có nhiệm vụ: Phối hợp với Tập Viết, tiếp tục củng cố và hoàn thiện tri thức cơ bản về hệ thống chữ viết và hệ thống ngữ âm tiếng việt. Phân môn Chính tả dạy cho học sinh hệ thống chữ cái, mối liên hệ âm – chữ cái – cấu tạo và cách viết chữ. Cung cấp tri thức cơ bản về hệ thống quy tắc chuẩn, thống nhất chính tả Tiếng Việt là liên kết và khu biệt khi viết chữ, các quy tắc nhận biết và thể hiện chức năng của chữ viết … Rèn luyện thuần thục kĩ năng viết, đọc, hiểu chữ viết Tiếng Việt. 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: Qua thực tếgiảngdạynhiềunămởlớpMột, bản thân tôi đượcgầngũi,tiếp xúc, trao đổivớihọc sinh, vớiphụ huynh học sinh, với các đồngnghiệp trong trường và điđếnkết luận là tình trạngviết sai chính tảcủahọc sinh lớpMột là do những nguyên nhân chủyếu sau: - Đối với phần chính tả tập chép thì đa số các học sinh hoàn thành, hoàn thành tốt các em nhìn chép thì viết đúng. Tuy nhiên, một số em chưa hoàn thành thì các em viết rất chậm. - Đối với phần chính tả nghe viết: + Do học sinh đọc chữ chậm, mới nhận mặt chữ từ phần vần sang phần đọc tổng hợp (Tập đọc) các bài thơ ngắn, đoạn văn, bài văn ngắn…Cho nên việc viết bài củacác em chỉ quen với nhìn chép lại. + Do một số em đọc chữ chưa thànhthạo tôi thấy những lỗi các em mắc phải đã được sửa vẫn lặp đi lặp lại chứng tỏ các em không nhớ và không hiểu. + Nguyên nhân nữa là do phát âm sai và không nắm quy tắc chính tả. Ngoài ra cũng có trường hợp bất cẩn, lo ra nên dẫn đến mắc nhiều lỗi chính tả. Cụ thể là: * Về thanh điệu: Do đặc thù của địa phương chịu ảnh hưởng phương ngữ Nam Bộ nên khi phát âm khó mà phân biệt được thanh hỏi hay thanh ngã như: + Chữ rõ các em viếtrỏ + Chữđãviếtđả + Chữ mỡviếtmở 2 https://baigiang.edu.vn/

  3. * Về âm đầu: Đa số các em có sự nhầm lẫn giữa các chữ ghi âm đầu g/gh, ng/ngh/, ch/tr, s/x, b/p, d/gi/r. Bên cạnh đó trong quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng hai hoặc ba dạng ( Ví dụ /k/ ghi bằng c/k/q…) dĩ nhiên là có những quy tắc riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh tiếu học (nhất là học sinh chưa hoàn thành) thì rất dễ lộn. Ví dụ: - tr/ch: cây che, mái tre, chung thành, trung sức… - d/r/gi: ra dẻ, cụ dà, da vào, cặp gia… - gh/g: ngi nhớ, gồ gề, cái gế - ng/ngh: con ngé, suy ngĩ, ngĩ ngợi - c/k : con ká, con ciến, dòng cênh * Về âm chính: Các em có sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này là do có hai nguyên nhân: + Thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ, nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au.. +Thứ hai là do cách phát âm không chuẩn trong phương ngữ Nam Bộ đối với các âm chính. * Về âm cuối: Đa số người Miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt âm cuối n/ng/nh và t/c/ch. Nhưng số từ vựng mang các vần này không nhỏ trong bộ phận tiếng việt. Mặt khác hai bán âm cuối i lại được ghi bằng con chữ i/y (Trong tiếng lai/lây), bán âm cuối u/o( Trong tiếng sao/sau) do đó là lỗi về âm cuối là khó khắc phục đối với học sinh chúng ta. Ví dụ: - ăn/ ăng/ anh: tặn cháu, xang mát, hằnh ngày... - êt /êch: dấu vếch, chênh lệt... - ât /âc: giất ngủ, thậc thà, chủ nhậc, nhất lên... - ao/au: trèo cau, đi trước đi sao, ngôi sau...... * Bên cạnh đó, giáo viên và học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong giờ học chính tả. Cụ thể: - Đa số các em còn viết sai nhiều vềđộ cao các con chữ,nét chữ chưa đúng, sai cách ghi dấu thanh, sai về cách trình bày. - Các em không biết cách trình bày một bài viết chính tả. Khi viết chính tả tập chép, học sinh nhìn bài “mẫu” của giáo viên để chép và khi thấy giáo viên xuống dòng ở đâu ( ở chữ nào) thì học sinh cũng xuống dòng ở chữ đó. Hoặc đang viết chưa hết hàng thì cũng xuống dòng mặc dù trong bài viết không yêu cầu xuống dòng. Khi dạy bài chính tả đầu tiênbài “ Trường em”năm học 2016- 2017 tôi thống kê được kết quả như sau * Viết bài chính tả: Tổng số học sinh: 24 học sinh. Hoàn thành tốt: 3 em 3 https://baigiang.edu.vn/

  4. Hoàn thành: 9 em Chưa hoàn thành: 12 em * Cách trình bày chính tả: Tổng số học sinh: 24 học sinh. Trình bày đúng, đẹp: 3 em Trình bày đúng, nhưng chưa đẹp: 9 em Trình bày sai: 12 em 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: - Mục tiêu tổng quát của giáo dục tiểu học nhằm đào tạo những con người toàndiện. Vì vậy quá trình dạy học có phát huy tính tích cực trí thông minh cho trẻ được hay không,…tất cả phụ thuộc vào khả năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt của trẻ. Mà môn Chính tả có vị trí rất quan trọng trong cơ cấu chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học. Phân môn Chính tả dạy cho học sinh tri thức và kỹ năng chính tả, phát triển năng lực sử dụng hình thức viết vào hoạt động giao tiếp và còn rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất như tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, bồi dưỡng các em lòng yêu quý Tiếng Việt và chữ viết Tiếng Việt.Chữ viết là một phát ngôn quan trọng của loài người. - Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết là một sự biểu hiện của nết người, dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận viết đẹp là góp phần rèn luyện các tính cẩn thận tính kỷ luật và lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy đọc bài, đọc vở của mình”. Vì vậy chữ viết cần phải đúng, đẹp. Chữ viết sai chính tả hiệu quả giao tiếp sẽ giảm. Hiện nay đã khơi dậy trong học sinh, giáo viên và cả xã hội về ýthức cần viết chữ đúng và đẹp, phong trào Giữ vở sạch - Viết chữ đẹpthực hiện theo hướng dẫn số 26/ HD- SGDĐT ngày 19 tháng 8 năm 2013 của Sở Giáo dục và Đào tạođã và đang được mọi người quan tâm được tất cả giáo viên và học sinh chú trọng.Song song đóthực hiện theo Quyết Định 31 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạođã ban hành mẫu chữ viết. Đây chính là việc nhìn nhận tầm quan trọng và ý nghĩa của chữ viết đúng và đẹp. - Bên cạnhđó còn được các bậc phụ huynh, các cấp các ngành quan tâm, khuyến khích động viên đó chính là động lực giúp giáo viên và học sinh thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đề ra“ Giáo dục con người toàn diện”. Chính tả là phân môn có tính chất công cụ. Nó có vị trí quan trọng trong giai đoạn học tập đầu tiên của trẻ em. Mà khả năng tư duy của các em còn rất hạn chế, còn mang nặng tính trực quan. Trong suốt quá trình học từ tuần 1 đến tuần 22 học sinh mới được học phân môn Học vần(môn Tiếng Việt) học sinh đọc, viết vần, từ theo chữ cỡ vừa. Sang tuần 23, học sinh được học Tiếng Việt với nội dungtổng hợp trong đó có phân môn Chính tả. Ở đây, yêu cầu từ sự hiểu biết, từ thói quen có được trong phần học vần, trong các môn học khác, học sinh phải vận dụng, phải chuyển từ viết chữ cỡ vừa sang cỡ chữ nhỏ để chép và viết chính tả. Đó là một sự khó khăn đối với học sinh lớp Một. Các em mắc lỗi chính tả rất nhiều, có những học sinh viết sai hơn mười lỗi chính tả và thậm chí còn hơn thếnữa. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em ở môn Tiếng việt cũng như các môn học khác. Vì lý do trên tôi cố gắng thống kê, phân loại tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra “Một số biện pháp nâng cao chấtlượng phân môn Chính tả ở lớp Một” 3. Nội dung sáng kiến a. Thuận lợi: + Về phía học sinh: 4 https://baigiang.edu.vn/

  5. - Học sinh lớp Một học hai buổi trên ngày nên có nhiều thời gian để rèn cho học sinh học tập được nhiều kết quảhơn. - Phần lớn các em được học mẫu giáo. Đa số học sinh lớp Một mới đi học nên các em rất thích học, ham học, rất ngoan, vâng lời, nghe lời thầy cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệđộng viên, khen thưởng. - Phụ huynh cho con đến trường ở đầu năm cũng rất quan tâm đến việc học tập của con em mình, mua sắm sách vở, dụng cụ học tập đầy đủ. - Nhà trường đầu tư cơ sở vật chất cho học sinh, bàn ghế đúng quy cách, đảm bảo đủ chỗ ngồi, chuẩn theo yêu cầu hiện nay. - Được sự quan tâm và chỉđạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi giảng dạy. Thiết bị đồ dùng dạy học đầy đủ. - Nhà trường, ngành giáo dục quan tâm đến chất lượng chữ viết đúng chính tả của các em ngay từ lớp Một. + Về phía giáo viên: - Giáo viên có tinh thần tự học, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn. - Nhà trường, ngành giáo dục quan tâm đến chất lượng giảng của các thầy cô giáo bằng hình thức tổ chức hội thi “ Giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệmlớp giỏi, Viết đúng, viết đẹp” của cấp trường, cấp thị xã, cấp tỉnh” để học tập rút kinh nghiệm lẫn nhau. b. Khó khăn: + Về phía học sinh: Vì các em là lứa tuổi đầu tiên phải làm quen với môn học này một cách mới lạ, bỡ ngỡ.Bên cạnh đó một nguyên nhân không nhỏ có ảnh hưởng đến việc viết sai chính tả của học sinh là do phụ huynh thiếu quan tâm sửa lỗi cho các em. Ở nhà khi các em nói sai, nói ngọng thường là phụ huynh bỏ qua, chỉ có số ít là phụ huynh sửa sai cho con em mình. Một số phụ huynh đi làm xa để mặc con em ở nhà. + Về phía phụ huynh học sinh:Gia đình học sinh chủ yếu làm ruộng hoặc đi làm thuê nên thường gặp khó khăn về kinh tế. Phụ huynh phải bươn chải với cuộc sống nên ít có thời gian quan tâm đến con em và giao phó hết trách nhiệm cho nhà trường. Nhiều phụ huynh chỉ chú trọng đến con mình như: đọc chữ thông thạo, làm toán nhanh,…mà quên mất phần chính tả nghe viết của con em mình phó thác việc đó cho giáo viên. c. Tiến trình thực hiện - Mục tiêu phân môn Chính tả, không tách rời việc xác định mục tiêu và nhiệm vụ dạy Tiếng việt ở tiểu học.Theo tôi xác định được mục tiêu của phân môn Chính tả là phải cụ thể đúng hướng, đó là điều kiện quyết định sự lựa chọn nội dung và phương pháp dạy Chính tả. Phân môn Chính tả giải quyết vấn đề dạy cho trẻ biết chữ để học tiếng, dùng chữ để học các môn khác và để sử dụng trong giao tiếp. - Vì vậy để giúp học sinh nâng cao chất lượng phân môn Chính tảthì bản thân tôi rèn cho học sinh có ý thức, thói quen và hoàn thiện kĩ năng viết đúng,viết đẹpnhằm nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt.Ngoài ra, phải dành nhiều thời gian kiểm tra chữ viết của học sinh và kịp thời uốn nắn sửa sai cho từng học sinh. - Bên cạnh đó, trong giảng dạy tôi luôn không ngừng tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm hữu hiệu nhất để sớm rèn cho các em viết chữ đúng, viết chữ đẹp. Và để làm được điều đó tôi tiếp tục mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này để có thêm một số kinh nghiệm trong việc rèn chữ viết đúng và đẹp cho học sinh lớp Một. Đồng 5 https://baigiang.edu.vn/

  6. thời giúp học sinh có vốn kĩ năng ban đầu thuận lợi cho việc học tốt môn Chính tả ở những lớp trên. -Vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học linh hoạt gây hứng thú học tập cho các em. - Truyền thụ nội dung dạy học phải phù hợp với các học sinh nhất là đối với các em chưa hoàn thành. - Tìm ra nhiều biện pháp để giúp các em viết chính tả có tiến bộ. d.Thời gian thực hiện - Việc giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt nói chung phân môn Chính tả nói riêng là một trong những nhiệm vụ mà bất kì giáo viên trường học nào cũng chú trọng. Từ thực tiễn làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp tôi rất quan tâm đến việc thực hiện đề tài sáng kiến.“Làm thếnào để nâng cao chất lượng r - Do đó, đềtài này được tôi nghiên cứu với các số liệu thực trạng từcác năm học 2014-2015 và đúc kết kinh nghiệm bản thân, áp dụng các giải pháp vào các năm học 2015-2016, 2016-2017 đến nay tôi thấy có hiệu quả. Trong năm học 2017-2018 này tôi mạnh dạn áp dụng và giới thiệu đề tài này với mong muốn chia sẻ kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, của hội đồng khoa học đểgiúp đề tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. e. Các biện pháp và quá trình tổ chức tiến hành Về mặt lý luận còn có chỗ thiếu sót hoặc chưa chặt chẽ vì kinh nghiệm bản thân có hạn, nhưng tôi tin rằng sự phát hiện những biện pháp mới mẻ với việc giải quyết vấn đề dưới đây và việc áp dụng vào giảng dạy của tôi đã có những thành công nhất định. Tính thực tiễn là học sinh đã biết nắm được các quy tắc chính tả, giúp các em viết chính tả được tốt hơn trước đây. Qua đó tôi rất tin tưởng việc đưa ra một số biện pháp mới này là khoa học và có hiệu quả thực sự. Tôi có một số biện pháp khắc phục sau. e.1) Chuẩn bị dụng cụ học tập cho học sinh: - Đầu năm học tôi tổ chức họp Cha mẹ học sinh để phổ biến cho phụ huynh cách hướng dẫn, quản lý việc học của con em mình mua dụng cụ học tập cho các em đúng theo yêu cầu. + Bảng con, phấn, giẻ lau: - Trước đây học sinh viết bảng con nào cũng được nhưng do chữ viết ở lớp Một có đặc thù riêng vì có các chữ cái đều có độ cao khác nhau: 2 ôli, 3 ôli, 4 ôli, 5 ôli nên tôi thống nhất học sinh cần phải mua loại bảng con có dòng li, loại bảng hiệu Kim Nguyên. Phấn Mic hoặc phấn Thiên Long trắng có chất liệu tốt, không dùng phấn cứng quá hoặc kém chất lượng. Giẻ lau phải mềm, sợi bông thấm nước, giữ độ ẩm vừa phải, có thể gấp nhiều lần, độ dày thích hợp và luôn sạch. - Số lượng: Bảng con, giẻ lau đảm bảo đủ cho từng học sinh mỗi em một cái, học sinh phải có hộp đựng phấn. + Vở chính tả và bút: - Đối với lớp Một trong học kì I chưa yêu cầu học sinh có vở chính tả, nhưng bản thân tôi có qui định ở lớp, mỗi em có một quyển vở để viết bài học âm và học vần. Các em viết trước như vậy nhằm giúp các em qua học kì II có thói quen, biết cách viết một bài chính tả, trình bày sạch sẽ, rõ ràng. Chọnbút chì phải gọn nét, bút mực phải trơn không gai, nét viết không quá thanh hoặc quá đậm, mực xuống đều, dễ viết, gom tẩy phải có đầy đủ. 6 https://baigiang.edu.vn/

  7. e.2) Chuẩn bị chu đáo điều kiện vật chất để học sinh học tập. Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức khỏe của học sinh vì vậy phải chuẩn bị về phòng học, bàn ghế, bảng lớp đúng quy cách: + Ánh sáng phòng học Điều quan trọng đầu tiên là phòng học đúng quy định, có hệ thống cửa sổ thoáng mát, đủ ánh sáng. Được sự quan tâm của nhà trường và hội phụ huynh học sinh của khối lớp Một được trang bị đầy đủ bóng đèn điện và hai chiếc quạt treo trần trong các lớp để phục vụ cho việc dạy và học trong những ngày trời mưa, trời tối không có ánh sáng mặt trời các em có đủ ánh sáng để học tập và viết bài, các em không bị nóng bức chảy mồ hôi làm ướt vở trong những ngày hè. + Bảng lớp Bảng lớp là phương tiện rất cần thiết đối với giáo viên. Việc trình bày bảng lớp để viết mẫu cho học sinh học tập và noi theo. Nhìn chung bảng lớp ở trường đều có những đường kẻ ô vuông chuẩn sẽ giúp cho giáo viên trình bày bài viết trên bảng lớp được đúng, đẹp và dễ dàng. Nhưng những đường kẻ đó còn chưa rõ lắm, học sinh dưới lớp nhìn lên chưa thấy rõ cho nên mỗi giờ dạy để thuận lợi hơn cho giáo viên và học sinh thì tôi tự kẻ lại trên bảng từng đường kẻ rõ ràng hơn nhằm để giúp học sinh dễ theo dõi nội dung bài viết. Bảng lớp phải luôn luôn được xoá sạch bằng khăn lau sạch, có độ ẩm vừa phải. + Bàn ghế học sinh - Với điều kiện thuận lợi của nhà trường chúng tôi là đã được trang bị cho học sinh lớp mình những bộ bàn ghế phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp Một. - Bàn ghế học sinh: Đầy đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Trung bình hai em học sinh ngồi chung bàn tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ngồi học, ngồi viết tốt. e.3) Chuẩn bị tốt nề nếp học tập, tư thế ngồicách cầm bút, để vở và cách rèn giữ vở sạch: + Một số quy định về nề nếp học tập: Tôi hướng dẫn cho học sinh nắm được một số các kí hiệu mà tôi đã quy định và ghi kí hiệu này lên góc trái phía trên bảng để các em thực hiện trong các giờ học như sau: - Giáo viên kí hiệu “ B” học sinh lấy bảng, học sinh cất bảng khi giáo viên xóa B. - Giáo viên kí hiệu “V”: học sinh lấy vở, học sinh cất vở khi giáo viên xóa V. Việc hướng dẫn học sinh thực hiện tốt các kí hiệu trên nhằm mục đích đảm bảo tính kỉ luật, trật tự trong lớp học, giúp học sinh tập trung chú ý vào các hoạt động học tập tránh gây mất trật tự và lộn xộn trong giờ học nhất là khi thao tác sử dụng đồ dùng học tập. + Tập thói quen tư thế ngồi cách cầm bút: Trong lớp học vẫn còn không ít học sinh ngồi viết không đúng tư thế và cách cầm bút. Người có trách nhiệm đầu tiên và lớn nhất trong hiện trạng nói trên là những người dạy các em cầm bút tập viết lần đầu tiên. Các em ngồi không ngay ngắn và cầm bút không đúng kiểu mà không được uốn nắn ngay cho đến khi có cách ngồi và cách cầm bút đúng thì sau này rất khó sửa. Rèn cho học sinh tư thế ngồi và cách cầm bút viết cho đúng không phải chỉ là việc làm ở đầu học kì I của lớp Một mà là việc làm thường xuyên của giáo viên.Tay các em còn non, cầm bút không nhẹ nhàng như người lớn. Nhưng nếu cầm sai mà được uốn nắn ngay thì cũng dễ sửa hơn người lớn. Lưng các em còn rất mềm ngồi viết không đúng kiểu sẽ dẫn đến bệnh cong vẹo cột sống và cận thị. Chính vì vậy, ngay từ các buổi học đầu tiên của lớp Một, tôi hướng dẫn học sinh tỉ mỉ, cẩn thận về cách cầm phấn, cầm bút chì cũng như tư thế ngồi, cách để vở. 7 https://baigiang.edu.vn/

  8. + Cách để vở: Ở lớp Một, học sinh chủ yếu rèn viết chữ đứng nên học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Khi viết chữ về bên phải, quá xa lề vở, cần xê dịch vở sang trái để mắt nhìn thẳng nét chữ, tránh nhoài người về bên phải để viết tiếp. + Rèn giữ vở sạch: - VởChính tả phải có đủ bìa nhãn, không bỏ vở, giữ gìn sạch sẽ, không để quăn mép, hoặc giây bẩn, xé trang. Không bôi mực ra vở, không làm quăn mép vở. Vở viết của học sinh chọn cùng một loại giấy trắng, không nhoè mực... - Bút chì cần được gót cho cẩn thận đầu chì không quá nhọn hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ. - Bút mực viết bằng bút bi. (Em nào viết tốt thì hướng dẫn các em sử dụng bút mực có ngòi bút nét thanh, nét đậm ra đều mực. Để tránh bẩn tay tôi thường hướng dẫn học sinh tỉ mỉ cách lấy mực, đậy nắp và lau sạch mực ở phần ngoài của bút bằng giấy lau thấm). e.4) Dạy học sinh viết chính tả,trình bày bài chính tả và giáo dục tính cẩn thận khi viết: + Hướng dẫn viết chính tả : - Khi các em chuyển sang tuần 23 học sinh lớp Mộtbắt đầu viết chính tả. Trong thời gian này học sinh viếtchữ cỡ vừa và bắt đầu học phân môn Chính tả. Như vậy, học sinh không có một tiết học nào làm quen với cách viết cỡ chữ nhỏ. Do đó học sinh gặp khó khăn khi viết chính tả là chưa nắm được độ cao từng con chữ và không biết cách trình bày bài viếtnhất là học sinh chưa hoàn thành.Do đó khi bước sang tuần 12 tôi giới thiệu mẫu chữ nhỏ và mẫu chữ hoa để hướng dẫn các em viết cụmtừ ứng dụng theo cỡ chữ nhỏ với mục đích chủ yếu để học sinh có sự nhận biết ban đầu về độ cao, độ rộng của từng con chữ. Ví dụ: Luyện đọc bài 68: ot, at ( tiếng việt 1-tập 1 ). Trong bài này tôi giới thiệu cho học sinh con chữ “o, a”,viết theo cỡ chữ nhỏ có độ cao 1 đơn vị, con chữ “t” cao 1,5 đơn vị. Khi dạy các bài khác tôi cũng giới thiệu tương tự. Vì vậy, qua cách làm đó học sinh đã biết về cỡ chữ nhỏ để rồi khi chuyển sang viết chính tả học sinh không còn lúng túng về độ cao các con chữ cũng như cách viết. Nhưng cũng không thể tránh khỏi một số trường hợp học sinh viết không đúng cỡ chữ, chữ chưa đều, chưa đẹp. Với những trường hợp này tôi phải hướng dẫn tỉ mỉ để các em viết đúng mẫu. Tôi đã áp dụng việc viếtbài chính tảvào vở của các em trong những tuần đầu viết thật ngay ngắn và đẹp cho các em quan sát. Đến khi viết bài tôi yêu cầu các em nhìn theo mẫu rồi viết kể cả trong bài tập chép hay ngheviết tôi đều làm như vậy, sau một tuần làm như vậy tôi thấy chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Sau một tuần làm quen với môn học này thì trước khi viết bàiChính tả tôi có yêu cầu các em vào tiết luyện chính tả viết trước ba lần vào nháp.Ngoài ra trong quá trình viết bài em nào viết sai tôi sẽdùng bút đỏgạch dưới chữ sai và tôi viết mẫu lại yêu cầu học sinh chữa lại ngay ở hàng dưới. + Cách trình bày bài viết chính tả: - Đối với những bài chính tả đầu tiên việc trình bày của học sinh còn rất lúng túng. Các em không biết cách trình bày như thế nào là cho đúng và cho đẹp từ cách ghi tên bài viết, rồi đến trình bày nội dung bài viết. - Để khắc phục tình trạng này tôi xin được trình bày cách làm mà tôi đã thực hiện và thấy có hiệu quả như sau: * Trình bày: Vềcách ghi tựa: 8 https://baigiang.edu.vn/

  9. Ghi thứ, ngày - tháng - ghi tên môn –ghi tên bài viết. Tôi luôn luôn chú ý đến cách trình bày bảng của mình đặc biệt trong giờ chính tả. Khi hướng dẫn học sinh viết vào vở, tôi đưa ra quy định chung cho học sinh của lớp mình. - Cách ghi thứ - ngày –tháng , chữ “Thứ” cách lề vở 2 ô. - Cách ghi tên phân môn: “Chính tả” cách lề 5 ô - Cách ghi tên bài: Không chỉ hướng dẫn các em trình bày bảng ở môn Chính tả. Mà đối với tất cả môn học như trong các bài học vần, trong các môn học khác khi ghi tên bài, tôi luôn chú ý trình bày làm sao cho đúng và cân đối trên bảng: Vídụ: Bài 21: Phân môn Đạo đức giáo viên trình bày bảng: - Tôi hỏi: Tại sao không viết chữ “Em ”vào sát lề hoặc vào giữa bảng ? - Học sinh: viết như vậy không đẹp. - Tôi cho học sinh thấy được cái đẹp ở đây không những chỉ về chữ viết mà còn cả về cách trình bày. Từ đó hình thành thói quen cho học sinh về cách trình bày bài một cách khoa học và đẹp mắt.Đến khi viết chính tả, tôi chỉ cần nhắc nhở là các em có thể tự ước lượng và trình bày vào vở của mình (có thể chưa cân đối) và dần dần trở thành thói quen, được thực hành nhiều lần các em sẽ có kỹ năng trình bày bài đúng, đẹp và khoa học. Đối với những học sinh chưa hoàn thành, tôi sẽ chỉ và hướng dẫn các em ở một số bài đầu tiên về cách viết, viết cách lề khoảng mấy ô. Sau đó yêu cầu học sinh tự ước lượng, tự thực hành. 9 https://baigiang.edu.vn/

  10. * Trình bày: Về đoạn văn và đoạn thơ: - Khi đến giờ viết chính tả tôihướng dẫn học sinh cách trình bày một đoạn văn hay một khổ thơ, bài thơ thì thật là khó khăn trong một tiết học, mất rất nhiều thời gian mà hiệu quả lại không cao, sẽ có nhiều em trình bày không đúng nhất là viết đoạn văn hay khổ thơ lục bát. - Do đó trong các bài học vần, khi đưa ra đoạn văn, đoạn thơ ( khổ thơ ) ứng dụng tôi luôn chú ý cách trình bày đoạn ứng dụng đó trên bảng phụ hoặc bảng lớp giới thiệu cho học sinh hiểu cách trình bày từng bài đó. Ví dụ: + Đối với thơ: Dạy bài 72: ut- ưt ( Tiếng việt 1 –Tập 1 ) có đoạn thơ ứng dụng. Tôi hướng dẫn các em hiểu: +Khi các em viết đoạn thơ từ lề vở cách vào 2 ô. + Các chữ cái đầu tiên ở mỗi dòng thơ phải viết hoa hoặc in hoa con chữ đầu tiên (chữ in). + Các chữ đầu các dòng thơ phải thẳng đều nhau. +Cuối đoạn thơ phải có dấu chấm. 10 https://baigiang.edu.vn/

  11. + Đối với thể thơ lục bát : Dạy bài 74: uôt- ươt ( Tiếng việt 1 –Tập 1 )có đoạn thơ ứng dụng : Tôi hướng dẫn các em hiểu: + Các chữ cái đầu tiên ở mỗi dòng thơ phải viết hoa hoặc in hoa. + Cuối đoạn thơ có dấu chấm. + Tôi phải giúp học sinh hiểu số chữ ở từng dòng thơ và cách trình bày khác với bài trước: Dòng 6 chữ phải lùi vào 2 ô so với lề vở và dòng 8 chữ phải lùi vào 1 ô so với lề vở. Vì vậy, ngay từ các bài học vần tôigiới thiệu cho học sinh, cách trình bày cách viết hoa (viết hoa tên riêng …) cách ghi dấu chấm, cách ghi dấu phẩy hay cả cách ghi dấu chấm hỏi có trong bài. Do đó khi sang viết chính tả bài đầu tiên học sinh viết đó là bài trường em, học sinh phải chép một câu ở đoạn một và một câu trong đoạn hai của bài, học sinh không hiểu cách trình bày một bài viết có nhiều đoạn. Chính vì thế, ngay từ bài tập đọc, tôihướng dẫn học sinh xác định rõ đoạn 1, đoạn 2 của bài tập đọc sau đócho học sinh nhắc rõ từng đoạn như thế học sinh cũng phần nào hiểu về cách trình bày hết đoạn 1 sang đoạn 2 ta phải xuống dòng, viết lùi vào 2 ô và viết hoa con chữ đầu tiên. Những bài chính tả đầu tiên, tôi luôn luôn có bảng chép mẫu bài viết. Ví dụ: Khi dạy bài “Tặng cháu” tôi chuẩn bị bảng như sau: * Bài viết đúng, đẹp các con chữ đều, chuẩn là bài để học sinh nhìn mẫu viết theo: 11 https://baigiang.edu.vn/

  12. * Bên cạnh đó trước khi học sinh chép bài chính tả, tôi đưa ra bảng phụ viết sai để học sinh nhận xét cách trình bày không đúng, từ đó giúp các em không mắc phải cái sai đó cách sử dụng bảng phụ này tôi thực hiện khi dạy chính tả ở vài bài đầu. Bài viết sai về cách trình bày tôi viết vào bảng phụ. 12 https://baigiang.edu.vn/

  13. + Giáo dục tính cẩn thận khi viết. Một số em muốn viết nhanh viết cẩu thả cho xong bài nhưng không thể chấp nhận được với bất kì lớp nào, nhất là lớp Một. Với học sinh lớp Một, tôi thường phải giáo dục các em tính tỉ mỉ, cẩn thận, giáo dục qua các bài học, qua các gương trong thực tế ngay từ thời gian đầu để học sinh không có thói quen viết ngoáy. Nếu có, tôi phải giúp học sinh dần dần khắc phục nhược điểm này, để khắc phục được lỗi trên, nhìn chung tôi phải ân cần, dịu dàng uốn nắn, kể cả lỗi do vụng về mà để vở bị dơ bẩn hay quăn mép. Riêng với lỗi viết ngoáy tôi nghiêm khắc hơn để đưa học sinh vào nề nếp. Tôi luôn nhắc nhở học sinh : “Các con luôn phải ghi nhớ dòng chữ ghi ngay góc lớp”. Từ đó,để các em luôn có tính tự giác. Đối với học sinh lớp Một thì tôi phải“ Vừa dạy, vừa dỗ”. e.5 ) Dạy kết hợp với luyện phát âm: Để cho học sinh viết đúng chính tả, tôi phải chú ý luyện phát âm và phân tích cách phát âm cho các em dễ phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối.Vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, phát âm thế nào thì ghi chữ lại như thế ấy.Vì vậy trong suốt quá trình lên lớp ở tất cả các môn học và cả khi giao tiếp, tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở rèn cách phát âm cho các em, gợi ý và làm mẫu để các em biết đọc và viết đúng. Tôi thường tổ chức các hình thức đố vui ngắn ( nêu âm, vần để học sinh phát âm đúng) đại diện mỗi nhóm chú ý những em chưa hoàn thành phát âm, có tuyên dương khích lệ tinh thần học tập ở mỗi tiết học. e.6)Dạy phối hợp với sự nghe-viết của học sinh: - Đa số học sinh mới làm quen với việc nghe-viết: Cho nên khi đọc bài cho các em viết giọng đọc của giáo viên là rất cần thiết. Trước khi đọc cho học sinh viết tôi cần chọn vị trí nhất định không di chuyển tới lui, tránh sự phân tán của các em. - Tôi phải đọc với giọng chính xác, phát âm chuẩn rõ ràng kết hợp theo dõi tốc độ viết của học sinh để điều chỉnh cách đọc như: Đối với các học sinh chưa hoàn thành viết chậm thì tôi cần đánh vần, đọc từng con chữ ghép lại cho học sinh viết hoặc viết tiếng đó lên bảng để học sinh viết lại. Ví dụ: Những tiếng mang thanh ngãthì tôi sẽ đọc hơi dài, còn thanh hỏithì đọc hơi ngắn. Những tiếng có âm cuối là nhoặc nghthì sẽ đọc khác nhau bằng hơi nhẹ hơi nặng an, an. 13 https://baigiang.edu.vn/

  14. e.7)Phương phápdạy học phát huy tính tích cực của học sinh: Khi học sinh làm quen dần với môn Chính tả thì tôi phát huy tính tích cực của học sinh: - Đối với những tiếnghoặc từ khó viết trong bài, tôi để học sinh tự ra và tự phát âm-phân tích-viết bảng, sau đó học sinh tự nhận xét, sửa sai cho nhau. Tôi chỉ là người hướng dẫn rồi chốt lại. Ví dụ: Khi dạy bài chính tả nghe-viết “Mời vào” tôi yêu cầu học sinh tự tìm tiếng viết khó trong bài như: xem, gạc và các em phân tích. Như thế học sinh đọc, phân tích, nhận diện rồi viết, học sinh sẽ ghi nhớ chữ viết và viết chính tả tốt hơn. - Đối với những bài tập chính tả để giúp học sinh hiểu nghĩa từ –ghi nhớ từ, nắm qui tắc chính tả, tôi không giảng từ thay học sinh mà giúp học sinh dựa vào tranh vẽ, biết đưa từ vào văn cảnh cụ thể để hiểu nghĩa từ –ghi nhớ từ. Có như vậy ghi nhớ từ sẽ chính xác và lâu bền. e.8) Dạy theo từng nhóm đối tượng học sinh, giúp học sinh nắm vững các quy tắc, cung cấp một số “mẹo luật” chính tả: - Để khắc phục những điểm còn chậm của học sinh thì tôi phân loại học sinh thành các nhóm theo các lỗi sai cơ bản học sinh hay mắc phải để trong những ngày bồi dưỡng học sinh chưa hoàn thành, tôi thấy học sinh lớp mình chậm về mặt nào thì rèn cho các em về mặt đó.Ví dụ như em nào sai cách đọc, sai cách viết âm đầu, âm chính, sai các nét, sai cách viết dấu thanh, sai về cách trình bày… thì phân biệt riêng để bồi dưỡng cho phù hợp. - Tôi chú trọng các bài tập mang tính “củng cố qui tắc chính tả” để sửa các lỗi về âm, vần cho học sinh. Ví dụ: Điền chữ c hay k: …..á vàng thước ….ẻ ( Tiếng Việt 1 –tập 2 trang 48 ) Sau khi học sinh làm bài và chữa bài: cá vàng, thước kẻ. Tôi đưa ra kết luận: cá vàngphải viết là c, và nếu là k ta sẽ có từ thước kẻ. Viết là k đi với âm i, e, ê. Sau các bài học vần và những bài tập chính tả g- gh, ng-ngh, c-k, tôi giúp học sinh hiểu được: -Viết là k khi đứng trước các nguyên âm i, e, ê. -Viết là c khi đứng trước các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư. -Viết là “qu” khi đứng trước các nguyên âm đôi: ua, uô. Chỉ có riêng tiếng “cuốc”trong từ “con cuốc, cái cuốc” và tiếng “cuống” thì viết là “c”. - Viết là gh khi đứng trước các nguyên âm e, ê, i. - Viết là g khi đứng trước các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư. - Viết là ngh khi đứng trước các nguyên âm e, ê, i. -Viết là ng khi đứng trước các nguyên âm a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư. 14 https://baigiang.edu.vn/

  15. Bảng ghi nhớ về Luật chính tả được đặt gần bảng lớp, để hằng ngày nhắc nhở các em: Ngoài ra tôi vận dụng một số “mẹo luật” giúp học sinh ghi nhớ khi viết chính tả để giúp học sinh viết đúng giữa ch và tr, giữa s và x, giữathanh hỏi và thanh ngã. * Viết là ch với những từ chỉ đồ vật, con vật những đại từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình chứ không bao giờ viết là tr. Ví dụ:Chỉ đồ vật: chổi, chén, chăn, chảo, chiếu, chum, chai, chuông, … Chỉ con vật: chó, chuột, chuồn chuồn, châu chấu, chồn, chào mào. Quan hệ thân thuộc trong gia đình:cha, chú, chị, cháu,… Hay trong chữ âm tiết có oa, oe, thì âm tiết đó có thể âm đầu viết ch.(không viết tr ) * Để phân biệt âm đầu giữa s và x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s: + Đa số các từ chỉ tên cây đều bắt đầu bằng s: Sả, sồi, sứ, sung, sắn, su su, sầu đâu,sầu riêng, … + Đa số các từchỉtên con vật đều bắt đầu bằng s: sam, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, sư tử, san hô… * Để phân biệt dấugiữathanh hỏi và thanh ngã: + Các từ gồm hai tiếng đều mang thanh hỏi: tỉ mỉ, thỉnh thoảng, đủng đỉnh, bải hoải, huỷ bỏ, lủng củng, tủm tỉm, chỉ bảo, rỉ rả, bẩn thỉu, bảng lảng, cẩu thả,.. 15 https://baigiang.edu.vn/

  16. + Các từgồm hai tiếng đều mang thanh ngã : lã chã, rỗi rãi, cãi vã, lỗ lã, lẽo đẽo, dễdãi, kì lưỡng, lễ mễ, lãng đãng, lẫm chẫm, lỗ chỗ. + Các thanh ngang và sắc đi với thanh hỏi,ví dụ như: dư dả, lửng lơ, nóng nẩy, vất vả...Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ khác. + Các thanh huyền và nặng đi với thanh ngã, ví dụ như: tầm tã, lững lờ, vội vã, gọn ghẽ.... Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ khác. e.9 ) Dạy kết hợp với phân tích – so sánh: - Trong bài chính tả đối với những tiếng khó, tôi áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ. Ví dụ: Khi viết tiếng “ buồng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “ buồn” tôi yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này: + Buồng = B+ uông + thanh huyền. + Buồn = B+ uôn+ thanh huyền. - So sánh để thấy sự khác nhau tiếng “ buồng” có âm cuối là ng, tiếng “ buồn” có âm cuối là n. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết các em sẽ không viết sai. e.10) Dạy kết hợp với giải nghĩa từ: - Để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh thì tôi dạy kết hợp với giải nghĩa từ. Với từ nhiều nghĩa phải đặt từ đó trong ngữ cảnh cụ thể để giải nghĩa từ. Ví dụ: Muốn khi nào viết “ truyện”, khi nào viết “ chuyện” các em phải phân biệt được sự khác nhau về nghĩa của hai từ này để từ đó rút ra cách viết đúng chính tả. - Viết là “truyện” khi muốn chỉ tác phẩm văn học được in. ( Ví dụ: Truyện ngắn, truyện cười,...) - Viết là “ chuyện” khi muốn chỉ một sự việc được kể lại (Ví dụ: Câu chuyện, chuyện tâm tình,... - Việc kết hợp với giải nghĩa từ không những dạy trong giờ Chính tả mà trong tiết dạy Học âm, Học vầnở học kỳ I tôi cũng thường xuyên giải nghĩa từ cho các emhiểu. e.11) Phân loại học sinh và tổ chức học sinh hoạt động nhóm: + Phân loại học sinh Vào đầu năm học tôi cho các em quyền tự chọn chỗ ngồi theo ý thích. Qua một tuần đầu theo dõi nắm rõ từng đối tượng học sinh trong lớp tôi sắp xếp chỗ ngồi cho các em thật hợp lý. Mỗi tổ, mỗi nhóm phải có đủcác đối tượng học sinh. Sau đó sắp xếp các em học sinh chưa hoàn thành ngồi cạnh học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt xếp những em hiếu động ngồi cạnh những em ngoan để có vị trí thuận lợi để tôi tiện theo dõi, quan sát quá trình học tập. Đối với học sinh học còn chậm, thì tôi sắp xếp tạo điều kiện về chỗ ngồi thuận lợi nhất là bàn đầu hoặc bàn thứhai để cho việc quan sát, theo dõi, uốn nắn kịp thời của giáo viên. Mỗi nhóm có một bạn nhóm trưởng và một bạn nhóm phó để theo dõi lẫn nhau trong mọi hoạt động học tập, như kiểm tra bài lẫn nhau, đổi vởcho nhau để tự chữa bài. Kịp thời thông báo cho giáo viên nắm được tình hình và giúp các em đó học được tốt. +Tổ chức hoạt động nhóm Thường vào tiết luyện tập buổi chiều tôitổ chức các em ngồi theo nhóm. Nhóm 16 https://baigiang.edu.vn/

  17. trưởng điều khiển“ Xem trước bài chính tả ngày hôm sau có nhữngtiếng hoặc từ khó thì nhóm trưởng( Nhóm trưởng luân phiên) đọc lên cả nhóm cùng viết vào bảng con, những em chưa hoàn thành trong nhóm viết chưa đúng các thì những em hoàn thành và hoàn thành tốt giúp đỡ.” Ví dụ: Ngày hôm sau viết bài chính tả nghe viết bài “ Cái Bống ” Bạn Hoàn Hảo chọn ra những tiếng khó viết: khéo, sảy, sàng, đường, trơn, gánh, chạy, cơn, ròng yêu cầu bạn Quốc Vĩ, bạn Gấm, bạn Thiện, bạn Phụng luyện đọc thật nhiều lần sau đó đọc bài cho bạn viết vào bảng con hoặc vào vở... ( Quan tâm bạn Quốc Vĩ , bạn Thiện học còn chậm). Các nhóm khác cũng thực hiện tương tự. Trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần tôi thường dành khoảng vài phút để tổng kết đánh giá nhóm thực hiện tốt tuyên dương những em có tiến bộ. e.12) Phương pháp nêu gương: Khơi dậy niềm đam mê luyện viết đúng viết đẹp. Tôi suy nghĩ mọi việc thành công đều bắt đầu bằng đam mê, luyện viết đúng viết đẹp, tôiphải có nhiều biện pháp để thu hút sự chú ý của các em bằng cách cho các em xem các bài mẫu của các học sinh lớp Một các năm trước bài viết đúng chính tả và đẹp. Từ đó hướng cho các em biết yêu cái đẹp, yêu nét chữ đẹp của bạn, của mình và cảm thấy được niềm vinh hạnh khi được sở hữu nét chữ đẹp từ đó các em quyết tâm rèn luyện.Đây là điều quan trọng không thể thiếu trong quá trình truyền đạt cho học sinh và mang lại sự thành công . Tôi treo bài mẫu học sinh năm trước ở dưới góc lớp để các em quan sát và học tập. 17 https://baigiang.edu.vn/

  18. e.13) Tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập: Đối vớihọc sinh Tiểu học các em rất thích được khen thưởng, tuyên dương, rất vui khi được cô nhận xétnhững lời khen vào vở để về nhà khoe với cha mẹ. Có thể, có em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học phân môn Chính tả nhưng các em rất thích được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em vui sướng, thích đến trường; tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí của các em như vậy nên tôi luôn động viên, khuyến khích các em; tôi luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh , dù chỉ một tiến bộ nhỏ của các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập, tôi đều khen ngợi và được tuyên dương vào tiết sinh hoạt lớp. Đối với những học sinh hoàn thành bài viết sạch đẹp, ít sai chính tả, tôi thường ghi nhận xét vào vở, và biểu dương các em trước lớp. Ví dụ: Đối với học sinh viết đúng viết đẹp tôi khen ngợi các em: “Bài con viết đúng chính tả nét chữ mềm mại, đáng khen”. Đối với bài học sinh chưa đúng mà có tiến bộ: “Bài chính tả hôm nay con viết tiến bộ, cô rất vui, con phải cố gắng hơn nữa”. Đối với những học sinh viết sai chính tả nhiều, tôi luôn dành thời gian hướng dẫn các em sữa lỗi ngay tại lớp. Cứ nửa học kì, tôi chọn ra những em chưa hoàn thành có tiến bộ nhất để khen thưởng tại lớp. Phần thưởng tuy nhỏ nhưng các em rất vui, rất thích học. e.14) Giáo viên phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc rèn chính tả cho học sinh: Tôi thường xuyên liên hệ cùng với phụ huynh học sinh để chia sẻ với phụ huynh nắm rõchương trình Tiếng việt ở học kỳ II có nhiều thay đổi, mức độ của chương trình được nâng cao, so với học kỳ I học sinh chỉ học âm, ghép vần nhưng học kỳ II các em được tiếp cận với nhiều phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện, mỗi phân môn có những đặc thù riêng. Mỗi tuần các em được học 2 tiết với hình thức chính tả tập chép và chính tả nghe viết. Riêng phân môn Chính tả là phân môn hoàn toàn mới lạđối với các em, khi học bài chính tả nghe viết học sinh phải vận dụng các kĩ năng nghe, viết, mà phải nắm được quy tắc chính tả mới viết chính xác bài viết …v.v và yêu cầu phụ huynh kiểm tra vở sau mỗi buổi đi học về đểnhắc nhở, đôn đốc, hỗ trợ giúp đỡ con em mình hơn nữa. e.15) Làm các bài tập chính tả: Sau mỗi bài học âm, học vần các em thường có phần bài tập trong vở bài tập tôi thường cho các em thực hiện điền hết các phần bài tập và tôi có soạn các bài tập khác hướng dẫn các em điền thêm (lớp tôi dạy 2 buổi, thực hành vào buổi chiều). IV. Hiệu quả đạt được 1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến: a.Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Lúc chưa áp dụng các biện pháp trên qua bài khảo sátviết chính tả đa số các em viết sai rấtnhiều lỗi: có em sai về âm đầu, có em sai phần vần, có em sai các dấu thanh thậm chí có rất nhiều em là không viết được gì.Có em bài viết không mắc lỗi chính tả nào nhưng chữ viết không đẹp, nét chữ rời rạc chưa đúng mẫu, trình bày vở chưa đúng quy định. 18 https://baigiang.edu.vn/

  19. b.Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: * Đối với học sinh: - Sau khi thực hiện các biện pháp trêntôi nhận thấy, chất lượng môn Chính tả của lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt, số em chậm không biết viết từ nhiều âm, vần và các dấu thanh giảm xuống đáng kể. Những em viết chữ không đúng mẫu và trình bày không định quy thì các em cũng tiến bộ. - Theo thống kê kết quả học sinh của lớp tôi viết chính tả có tiến bộtăng dần qua từng năm học cụ thể là: Tổng số HTT Tỉ lệ HT Tỉ lệ CHT Tỉ lệ Đầu HKII 2014- 2015 31 5 16,12% 17 54,83% 9 29,03% Cuối năm 31 8 25,80% 19 61,29% 4 12,90% Tổng số HTT Tỉ lệ HT Tỉ lệ CHT Tỉ lệ Đầu HKII 2015- 2016 33 7 21,21% 20 60,60% 6 18,18% Cuối năm 33 9 27,27% 22 66,66% 2 6,06% Tổng số HTT Tỉ lệ HT Tỉ lệ CHT Tỉ lệ Đầu HKII 2016- 2017 24 8 33,33% 12 50% 4 16,66% Cuối năm 24 10 41,66% 13 54,16% 1 4,166% Đếnhọc kỳ I năm học 2017- 2018 các em chưa học phân môn Chính tảnhưng ở phần học âm, học vần các em nghe viết phần từ ứng dụng cũng khá tốt tôi nghĩ sang phần viết chính tả học kỳ II các em sẽ viết bài tốt hơn. * Đối với bản thân: - Là một giáo viên được học sinh yêu mến, được đồng nghiệp, tổ chuyên môn, ban giám hiệu đánh giá cao về chuyên môn. Hạn chế học sinh còn viết sai chính tả. - Tôi luôn đầu tư nghiên cứu tìm ra nhiều phương pháp dạy để cuốn hút học sinh ham thích trong giờ học. - Theo dõi sự tiến bộ của học sinh chưa hoàn thànhviếtchính tả để tuyên dương hoặc khen thưởng giúp các em có sự tiến bộ rõ rệt. - Không ngừng nghiên cứu nâng cao trình độ về ngữ âm Tiếng việt và vận dụng nhiều phương pháp giải nghĩa từ chính xác, dễ nhớ. 19 https://baigiang.edu.vn/

  20. 2. Lợi ích thu được khi đề tài sáng kiến áp dụng * Đối với học sinh: - Đa số học sinh có năng lực viết thành thạo chữ viết Tiếng Việt theo các chuẩn chính tả. Bên cạnh đó những em chưa hoàn thành cũng có cố gắng và có sự tiến bộ rõ rệt.Học sinh viết sai từ 10 lỗi trở lên thì giờ đây các em chỉ còn viết sai khoảng 4 đến 5 lỗi. - Các em biết yêu quý Tiếng việt và chữ viết của Tiếng việt được thể hiện qua bài viết rõ ràng, sạch sẽ, chữ viết đẹp và đúng chính tả. - Các em chưa hoàn thành có ý thức tự giác trong học tập. Biết lắng nghe sự góp ý của cô và của bạn để sửa sai để ngày học càng tiến bộ hơn. - Đa số các em đọc bài trôi chảy, phát âm chuẩn. Phong trào thi kể chuyện Bác Hồ cấp trường năm học 2016- 2017 có 1em đạt giải A. - Với quá trình rèn luyện kỹnăng viết đúng, viết đẹp. Học sinh lớp tôi đã nắm vững các quy tắc viết chữ, các em viết thành thạo, chính xác, chất lượng môn chính tảđã được nâng cao và có ý thức giữ gìn sách vở cẩn thận. Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp loại đạt: 23 em, chưa đạt 1 em. Phong trào học sinh thi“ Viết đúng, viếtđẹp”cấp trường 2 em đạt giải: 1em đạt giải A, 1em đạt giải C. * Đối với giáo viên - Tạo cho giáo viên thói quen trau dồi kĩ năng viết : viết chữrõ ràng, đúng nét, đẹp; trình bày bài cân đối. - Tích cực thực hiện phương châm “dạy chữ - dạy người”. - Nắm vững các phương pháp rèn luyện phù hợp với học sinh. - Tích lũy được một số kinh nghiệm quý báu cho bản thân nhằm vận dụng cho suốt quá trình giảng dạy của mình. - Luôn có tinh thần cao trong việc nâng cao chất lượng dạy học * Đối với tổ chuyên môn: - Trong các giờ sinh hoạt tổ chuyên môntôi cùng chia sẻ kinh nghiệm và các phương pháp giảng dạy của mình với các đồng nghiệp trong tổ khối cũng như trong nhà trường để cùng nhau trau dồi, học hỏi và áp dụng trong công tác giảng dạy của mình. Vìvậy cho thấy số lượng học sinh chưa hoàn thành trong tổ khối đã giảm đi rất nhiều, chất lượng chữ viết chính tả của học sinh ngày càng được nâng cao. Tỉ lệ học sinh viết chữ đúng và đẹp tăng lên đáng kể. - Qua đó cho thấy Số lượng học sinh viết chính tả cả khốiđạt được kết quả như sau: Tổng số HTT Tỉ lệ HT Tỉ lệ CHT Tỉ lệ Đầu HKII 2016- 2017 68 20 29,41% 29 42,64% 19 27,94% 68 Cuối năm 30 44,11% 34 50% 4 5,88% 20 https://baigiang.edu.vn/

  21. * Đối với đơn vị, ngành: - Với các biện pháp đó, được ápdụng rộng rãi không những của tổ khối mà còn ở những lớp trên.Vì vậy cho thấy số lượng học sinh chưa hoàn thành toàn trường đã giảm đi rất nhiều, chất lượng chữ viết chính tả của học sinh toàn trường ngày càng được nâng cao. Ngoài ra, với việc rèn luyện thường xuyên bằng các biện pháp phù hợp nhằm đào tạo ra một đội ngũ học sinh viết đúng chính tả và đẹp để tham gia vào các hội thi viết chữ đẹp do nhà trường cũng như do cấp ngành tổ chức, đã đạt được kết quả rất cao và từ đó vị trí xếp hạng của nhà trường về phong trào viết chữ đẹp cấp ngành cũng ở vị trí khá cao so với các đơn vị bạn. - Chất lượng giảng dạy ngày càng cao, các giáo viên trong nhà trườngcó điều kiện học tập và trao đổi lẫn nhau để làm cho tổ khối ngày càng tiến bộ hơn. - Thường xuyên trao đổi kinh nghiệmvới đồng nghiệp để cùng áp dụngsáng kiến có hiệu quả. - Tạo tinh thần đoàn kết của học sinh trong lớp cũng như trong nhà trường. - Là cơ sở tốt để thực hiện phong trào xây dựng “trường học thân thiện học sinh tích cực”.Nâng cao uy tín đối với các trường trên địa bàn. V.Mức độ ảnh hưởng: 1. Khảnăng áp dụng giải pháp: Mục đích rèn học sinh viết đúng chính tả hết sức quan trọng là trách nhiệm của giáo viên, học sinh và nhà trường do đó các trường tiểu học đều quan tâm. Vì vậy tôi nghĩ rằng đề tài này được áp dụng ở tất cảcác trường tiểu học trong tỉnh, cả nước. 2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp đó. - Đối với học sinh: Các em luôn tự giác trong học tập, phải tự rèn luyện, chăm sóc chữ viết của bản thân: viết đúng mẫu, đúng chính tả, sách vở luôn giữ sạch đẹp. - Đối với giáo viên: luôn có tính kiên trì, nhẫn nại, có ý thức rèn luyện rất cao. Nắm vững các phương pháp rèn luyện phù hợp với học sinh. Xây dựng được nề nếp lớp học thật tốt. Luôn đầu tư nghiên cứu tìm ra nhiều phương pháp dạy để cuốn hút học sinh ham thích trong giờ học. Cần sử dụng thường xuyên đồ dùng khi dạy học. Cần mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.Tổ chức các trò chơi sinh động. Thường xuyên động viên, khích lệ học sinh học tập. - Đối với phụ huynh: Mua đầy đủ đồ dùng học tập cho các em. Tạo cho các em tâm lý vui vẻ, thoải mái nhất khi đến trường. - Đối với trường: Thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề đánh giá và rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng môn Chính tả. - Đối với ngành:Cần duy trì tổ chức các hội thi“Viết đúng viết đẹp”cho giáo viên và học sinhTiểu học. VI. Kết luận: - Qua việc áp dụng các biện pháp nêu trên nhìn chung về phía học sinh, chỉ trong mộtthời gian ngắn, các em có sựtiến bộ rõ rệthọc sinh chăm ngoan học tập, luôn chú ý đến chữ viết, đến sách vở của mình.Các em có tư duy và vận dụng thực tiễn để áp dụng vào bài viết của mình. Sự cố công rèn luyện, phấn đấu của học sinh. - Giáo viên luôn quan tâm đến phong trào vở sạch - chữ đẹp, chấm chữa bài cho học sinh thường xuyên. 21 https://baigiang.edu.vn/

  22. - Để trở thành giáo viên giỏi không phải là dễnhưng như vậy không có nghĩa là không làm được. Mỗi một giáo viên muốn thực hiện điều mong muốn của mình trong nghề nghiệp trước hết phải có lòng yêu nghề, ý chí quyết tâm và có năng lực sư phạm vững chắc và khi lên lớp giáo viên phải giữ cho mình một phong thái tựtin và bình tĩnh . - Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để trau dồi kiến thức. Giáo viên quan tâm, kèm cặp, uốn nắn học sinh khi viết chính tả. Tích cực tham gia phong trào Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp. - Phải rèn tính kiên trì chịu khó, luôn làm việc với phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Sửa chửa, khắc phục lỗi chính tả là một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải bền bỉ không được nóng vội. “Ở đâu có thầy giỏi. Ở đó có trò giỏi”. - Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh phải phù hợpvừa có học sinh chưa hoàn thành vừa có các em hoàn thành tránh tập trung nhiều học sinh chưa hoàn thành trong cùng một tổ. - Để rèn luyện học sinh viết chữ đẹp không phải là một phần riêng lẻ, mà là sự phối hợp nhẹ nhàng giữa các môn học. Nếu ở môn Tập đọc các em được học bài trôi chảy, thì ở môn Chính tả ,Tập viết,các em sẽ tự tin hơn trong quá trình viết bài, từ đó sẽ là cái nền vững chắc cho các em yên tâm rèn chữ viếtđúng, viết đẹpcủa chính mình, sẽ thể hiện được bản chất của các em qua từng nét chữ. “ Chữ đẹp là tính nết Của những người trò ngoan”( Quyển vở của em- Tiếng việt tập 2 lớp 1) - Ngoài ra, hiện nay thời đại công nghệ tin học đang phát triển mạnh. Vì vậy người giáo viên cũng cần phải học hỏi thêm về tin học để áp dụng vào việc soạn giảng giáo viên nghiên cứu rút ra cái hay đưa vào bài soạn của mình đạt hiệu quả cao hơn. Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo. - Luôn khen ngợi, so sánh, nêu gương các bạn viếtđúng chính tả vàđẹp và viết bài có tiến bộ trong các buổi sinh hoạt lớp, để động viên khích lệ học sinh. - Phát huy vai trò của các giáo viên dạy giỏi ở cơ sở trong việc chia sẻ kinh nghiệm dạy học cho đội ngũ giáo viên dạy lớp trong các hội thảo hay chuyên đề ở tiết Chính tả. Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã tìm tòi học hỏi tài liệu, đồng nghiệp và ghi chép lại trong quá trình giảng dạy. Trong khi áp dụng nếu có gì sai sót và chưa khoa học. Rất mong được chỉ dẫn ân cần và đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để năm học sau đạt được kết quả cao hơn. Tôi chân thành cảm ơn. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Trương Thị Anh Thi Người viết sáng kiến 22 https://baigiang.edu.vn/

  23. 23 https://baigiang.edu.vn/

More Related