1 / 10

Ảnh hưởng của dầu đậu nành, dầu hạt cải đến năng suất và chất lượng trứng gà Lương Phượng

u1ea2nh hu01b0u1edfng cu1ee7a du1ea7u u0111u1eadu nu00e0nh, du1ea7u hu1ea1t cu1ea3i u0111u1ebfn nu0103ng suu1ea5t vu00e0 chu1ea5t lu01b0u1ee3ng tru1ee9ng gu00e0 Lu01b0u01a1ng Phu01b0u1ee3ng

View5
Download Presentation

Ảnh hưởng của dầu đậu nành, dầu hạt cải đến năng suất và chất lượng trứng gà Lương Phượng

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. MỞĐẦU 1. Đặt vấn đề Trong chăn nuôi gia súc, gia cầm hiện nay thức ăn chiếm trên 70% giá thành sản phẩm, do vậy nghiên cứu vềdinh dưỡng thức ăn chăn nuôi luôn được các nhà khoa học quan tâm, việc sử dụng các chất có nguồn gốc thực vật làm nguyên liệu bổ sung vào thức ăn chăn nuôi là một hướng đi đúng và cấp thiết. Việc thay thế chất béo động vật bằng nguồn chất béo thực vật không sinh cholesterone như dầu hoa hướng dương, dầu đậu nành, dầu hạt lanh... kết quả làm giảm lượng mỡ bụng tích lũy ở gà thịt (Newman và cs, 2002 [30]; Wongsuthavas và cs, 2008 [38]). Đểtăng năng suất chăn nuôi, nhiều người đã sử dụng kháng sinh hoặc hocmon như một chất kích thích sinh trưởng, gây tồn dư ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng . Một thực tế cho thấy, ngày nay khi điều kiện kinh tếđược cải thiện, người tiêu dùng đã chú ý nhiều hơn đến chất lượng hơn là sốlượng của sản phẩm như trước đây. Những sản phẩm có tác dụng ngoài việc tăng sức khỏe lại có thêm tác dụng làm đẹp đang được sựquan tâm đặc biệt của người tiêu dùng. Một trong những chất đó là omega-3, omega-6 và omega-9. Các nghiên cứu gần đây cho thấy thành phần omega-3 có thể giúp bảo vệ hệ tim mạch, làm tăng cholesterol có lợi trong máu, hạ huyết áp, làm đẹp da và bảo vệ mắt… Trong thành phần của omega-3 có 3 loại axid béo: ALA (axit α- linolenic), EPA và DHA. Các chuyên gia y tếđã xác nhận rằng ALA là cơ sở vật chất omega-3, omega-6 và omega-9 là những loại chất béo thiết yếu đối với cơ thểcon người. Tuy nhiên, đây là chất mà cơ thể không tự tổng hợp được mà phải bổ sung từ thực phẩm bên ngoài vào như từ trứng, từ dầu thực vật, dầu cá, rong tảo biển…omega-3 là chất quan trọng trong việc duy trì sự phát triển não bộ của con người và là thành phần quan trọng của các tế bào não. Nó là tiền chất thiết yếu của các axit béo không no để cấu tạo nên các eicosanoids có chức năng hỗ trợ hệ miễn dịch, giúp cơ thể trẻ, khỏe mạnh hơn. Axit axit α-linolenic là một

  2. loại axit béo được tìm thấy ở thực vật. Nó tương tựnhư các axit béo omega-3 trong dầu cá, được gọi là axit eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA). Axit này rất hiếm trong các thực phẩm nguồn gốc thực vật ngoại trừđậu nành. Mặc dù có đôi chút khác biệt nhưng cơ thể chúng ta có thể biến đổi chúng thành axit béo omega-3 tương tựnhư loại có trong dầu cá. Thậm chí các nhà khoa học cho rằng axit béo omega-3 trong đậu nành còn tốt hơn trong dầu cá vì axit béo omega-3 trong dầu cá có phản ứng phụ, làm cho các phân tử tế bào trở nên không ổn định, dễ sản sinh các gốc oxy tựdo gây ung thư và làm xáo trộn insulin gây ra bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về các ảnh hưởng của dầu đậu nành, dầu hạt cải đến năng suất, chất lượng sản phẩm của vật nuôi tại Việt Nam, đặc biệt là tỷ lệ omega-3, omega-6 và omega-9. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Ảnh hưởng của dầu đậu nành, dầu hạt cải đến năng suất và chất lượng trứng gà Lương Phượng”. 2. Mục tiêu của đề tài - Đánh giá được ảnh hưởng của các tỷ lệ bổ sung dầu đậu nành, dầu hạt cải khác nhau đến năng suất và chất lượng trứng gà, từđó khuyến cáo tỷ lệ thích hợp. - Nâng cao giá trịdinh dưỡng, đặc biệt là tănghàm lượng omega-3 trong trứng để cung cấp cho con người. 3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3.1. Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho ngành khoa học thức ăn và dinh dưỡng gia cầm những thông tin cơ bản về việc sử dụng dầu đậu nành, dầu hạt cải trong thức ăn hỗn hợp đểchăn nuôi gà sinh sản. 3.2.. Ý nghĩa thực tiễn ân đối khẩu phần dầu đậu nành, dầu hạt cải vào công thức thức ăn hỗn hợp của gà đẻ sẽ nâng cao năng suất và chất lượng trứng gà, đặc biệt cung cấp

  3. khẩu phần thích hợp cho gà đẻ trứng nhằm tạo dòng sản phẩm có giá trị dinh dưỡng đặc biệt giúp nâng cao sức khỏe cộng đồng và làm giàu cho các hộ, doanh nghiệp chăn nuôi.

  4. Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 1.1.1. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản của gia cầm Cấu tạo cơ quan sinh dục gia cầm - ơ quan sinh dục cái của gia cầm Gồm một buồng trứng và một ống dần trứng. Buồng trứng có chức năng tạo lòng đỏ, còn ống dẫn trứng có chức năng tạo ra lòng trắng đặc, lòng trắng loãng, màng vỏ, vỏ mỏng và lớp keo mỡ bao quanh ngoài vỏ trứng. Thời gian trứng lưu lại trong ống dẫn trứng từ 20 - 24 giờ. + Buồng trứng: Buồng trứng nằm phía trái xoang bụng, thấp hơn thận trái, kích thước và hình dạng buồng trứng khác nhau tùy theo tuổi gia cầm. Gà con 10 ngày tuổi buồng trứng có hình phiến mỏng, kích thước từ 1 - 2 mm, khối lượng 0,03g, đến 4 tháng tuổi buồng trứng có dạng hình thoi, khối lượng 2,66g, đến thời kỳđẻ trứng buồng trứng giống như chùm nho có khối lượng 55g, ở thời kỳ gà nghỉđẻ thay lông thì khối lượng buồng trứng giảm xuống 5g. Theo Nguyễn Duy Hoan và cs (1998) [4] xác định ởgiai đoạn phôi thai, hai phía trái và phải của gà mái đều có buồng trứng phát triển nhưng sau khi nở thì buồng trứng bên phải tiêu biến chỉ còn lại buồng trứng bên trái. Sự phát triển của mỗi tế bào trứng gồm 3 giai đoạn: Thời kỳtăng sinh của các tế bào trứng bắt đầu xảy ra ngay trong thời kỳ phát triển phôi thai và kết thúc ởgiai đoạn gà con nở ra. Thời kỳsinh trưởng gồm có: Thời kỳsinh trưởng nhỏ: Từ khi gia cầm nởra đến khi thành thục về sinh dục. Thời kỳsinh trưởng lớn: Chỉ từ4 đến 13 ngày, đây là thời kỳtích lũy lớn nhất 90 - 95% khối lượng trứng được tích lũy trong giai đoạn này. Vào thời kỳ đẻđường kính của tế bào trứng là 35 - 45mm.

  5. Sốlượng tế bào trứng của gà mái có thểđến hàng triệu. Sốlượng trứng lúc gà bắt đầu đẻ từ 900 - 3600 nhưng chỉ có một sốlượng hạn chế trứng chín và rụng. Trong thời gian phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi một tầng tế bào không có liên kết với biểu bì phát sinh, tầng tế bào này phát triển trở thành nhiều tầng và sự tạo thành tiến tới bề mặt buồng trứng, cấu tạo này gọi là follicun. Bên trong follicun có một khoảng trống chứa đầy dịch, bên ngoài follicun giống như một cái túi. Trong thời kỳđẻ trứng nhiều follicun chín dần làm thay đổi hình dạng buồng trứng trông giống như chùm nho. Sau thời kỳđẻ trứng, buồng trứng trở về hình dạng ban đầu, các follicun trứng vỡ ra, quả trứng chín chuyển ra ngoài cùng với dịch của follicun và rơi vào phễu ống dẫn trứng. Sự rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự thành thục sinh dục, đó là quá trình đi ra của tế bào trứng chín. Từ buồng trứng, sự rụng trứng chỉ xảy ra một lần trong ngày, có những trường hợp đặc biệt có thể hai hoặc ba tế bào cùng rụng một lúc, trường hợp quả trứng của ngày hôm trước đẻ sau 4 giờ chiều thì phải sang ngày hôm sau mới xảy ra quá trình rụng trứng. Tính chu kỳ của sự rụng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tốkhác nhau như: điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, lứa tuổi, trạng thái sinh lý của gia cầm. Song điều kiện chung nhất là sự rụng trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của thần kinh và thể dịch (Nguyễn Duy Hoan và cs 1998 [4]). + Ống dẫn trứng là một ống dài có nhiều khúc cuộn, tại đây xảy ra quá trình thụ tinh và hình thành trứng của gia cầm. Tùy thuộc vào hình dạng và chức năng của ống dẫn trứng mà người ta chia thành các loại khác nhau. Kích thước và hình dạng ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và các hoạt động của cơ quan sinh dục. Trước khi đẻ quả trứng đầu tiên ống dẫn trứng dài ra, khối lượng tăng lên rất nhiều và nó chia thành từng phần khác nhau: Ởgà không đẻ trứng (trưởng thành) chiều dài ống dẫn trứng: 1 - 18cm. Ởgà đẻ trứng (lúc trưởng thành) chiều dài ống dẫn trứng: 55 - 68cm. Ở thời kỳ thay lông chiều dài ống dẫn trứng chỉ còn khoảng 7cm.

  6. Theo đặc điểm hình thái và chức năng sinh lý ống dẫn trứng chia thành 5 phần: loa kèn, phần tiết lòng trắng, phần eo, tửcung, âm đạo. - Loa kèn: Bề mặt niêm mạc của loa kèn thì không có ống tuyến chỉ phần cổ phễu có ống tuyến tiết ra một phần lòng trắng đặc hình thành dây chằng lòng đỏ. Tại đây trứng được thụ tinh nếu gặp tinh trùng, trứng chỉ dừng ởđây từ15 đến 20 phút. - Phần tiết lòng trắng: Là bộ phận dài nhất của ống dẫn trứng. Ở thời kỳ gia cầm đẻ với tỷ lệ cao, chúng có thể dài từ 20 - 30 cm, niêm mạc phần này có nhiều tuyến hình ống giống như cổ phễu để tiết ra lòng trắng đặc hình thành dây chằng lòng đỏ và tiết ra lòng trắng loãng, trứng dừng ởđây khoảng 3 giờ. - Phần eo: Là phần hẹp hơn của ống dẫn trứng, dài khoảng 8cm, các tuyến ởđây tiết ra một phần lòng trắng và tiết ra một chất hạt hình thành nên tấm màng dưới vỏ gồm 2 lớp, 2 lớp này tách nhau tại đầu lớn của vỏ trứng hình thành nên buồng khí. Các dung dịch muối và nước có thể thấm qua màng này đi vào lòng trắng. Trứng dừng ởđây khoảng 60 - 70 phút. - Tử cung: Là phần tiếp theo của quá trình tạo vỏ là phần mở to ra tạo thành tử cung dài từ 8 - 12cm, tuyến vách tử cung tạo thành một lớp dịch lỏng, chất dịch thẩm thấu qua màng vỏđi vào lòng trắng làm cho tăng khối lượng lòng trắng, mặt khác một số tuyến ở tử cung tiết ra một chất dịch hình thành nên vỏ cứng, quá trình hình thành của vỏ diễn ra chậm chạp. Trứng dừng lại ởđây khá lâu từ 18 - 20 giờ. - Âm đạo: Là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng, là cửa ngõ để trứng ra ngoài cơ thể. Giữa âm đạo và tử cung có một van cơ dài 17 - 20 cm, niêm mạc nhăn nhưng không có các tuyến hình ống. Tại chính mép biểu mô của âm đạo tiết ra một chất dịch tham gia hình thành lớp màng keo ở trên vỏ. Trứng đi qua phần âm đạo rất nhanh. Những trường hợp trứng dị hình: - Trứng không có lòng đỏ: Do trong cơ thể có những tế bào chết rơi vào

  7. loa kèn và ống dẫn trứng không phân biệt được vì vậy vẫn có quá trình tạo trứng và hình thành trứng nhỏ. - Trứng 2 lòng đỏ: Do 2 trứng cùng rụng một thời điểm hoặc cách nhau không quá 20 phút vì vậy hình thành nên quả trứng rất to. - Trứng trong trứng: Thường ít gặp, do bịkích động đột ngột một quả trứng hoàn chỉnh bịống đẫn trứng co lại gây ra nhu động ngược lên phía trên gặp tế bào trứng mới rụng, sẽ nằm cùng với lòng đỏ của trứng mới bên ngoài được bao bọc bằng lòng trắng và vỏ cứng. - Ngoài ra còn có trứng méo mó, không vỏ do thiếu khoáng, vitamin D, do co bóp của ống dẫn trứng... 1.1.2. Khả năng sinh sản của gia cầm và các yếu tố ảnh hưởng 1.1.2.1. Khảnăng sinh sản của gia cầm Trong chăn nuôi gia cầm, để sản xuất giống, khảnăng sinh sản của gia cầm là rất quan trọng, còn trong chăn nuôi gà lấy thịt, để sản xuất được nhiều thịt, cần tạo ra những dòng gia cầm có tốc độsinh trưởng nhanh, năng suất chất lượng thịt cao. Mặt khác cũng phải sản xuất ra nhiều gia cầm con trong cùng một thời gian. Để có nhiều gia cầm giống, con mái phải cho nhiều trứng giống, tỷ lệ có phôi, tỷ lệấp nở phải đạt cao. Các tính trạng của gia cầm sinh sản phần lớn là các tính trạng sốlượng nên ngoài tác động một phần do di truyền, chúng còn chịu ảnh hưởng rất lớn của các điều kiện môi trường. Đểđánh giá khảnăng sản xuất trứng của gia cầm, người ta không thể không chú ý đến sức đẻ trứng của gia cầm. Theo Brandsch và Bilchel (1978) [2] thì sức đẻ trứng chịu ảnh hưởng của 5 yếu tố chính. 1.Tuổi đẻđầu hay tuổi thành thục. 2.Chu kỳđẻ trứng hay cường độđẻ trứng. 3.Tần số thể hiện bản năng đòi ấp.

  8. 4.Thời gian nghỉđẻ, đặc biệt là nghỉđẻmùa đông. 5.Thời gian đẻ kéo dài hay chu kỳđẻ (hay tính ổn định sức đẻ). Các yếu tố trên có sựđiều khiển bởi kiểu gen di truyền của từng giống gia cầm. Đểđánh giá khảnăng sinh sản của đàn gà hay của một dòng gà nào đó thì người ta dựa vào những chỉ tiêu sau: - Tuổi đẻđầu Tuổi đẻ quả trứng đầu là thời điểm đàn gà đã thành thục về tính. Tuổi đẻ đầu phụ thuộc vào nhiều yếu tốnhư loài, giống, hướng sản xuất, kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, các yếu tốmôi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng. Thời gian chiếu sáng dài sẽthúc đẩy gia cầm đẻ sớm. Sự thành thục về tính sớm hay muộn còn liên quan chặt chẽđến khối lượng cơ thể. Những giống gà có tầm vóc nhỏthường thành thục về tính sớm hơn những giống gia cầm có tầm vóc lớn. Trong cùng một giống, cơ thểnào được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, điều kiện thời tiết khí hậu và độ dài ngày chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi thành thục sinh dục sớm hơn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh tuổi thành thục sinh dục sớm là trội so với tuổi thành thục sinh dục muộn. Đối với một đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là thời điểm tại đó đàn gà đạt tỷ lệđẻ 5%. Tuổi đẻ quả trứng đầu rất quan trọng vì nó có thể quyết định đến sản lượng trứng sau này của đàn gà. Theo Hays (dẫn theo Brandsch và Bilchel, 1978, [2]) thì những gà có tuổi đẻ quả trứng đầu lớn hơn 245 ngày cho sản lượng trứng thấp hơn những gà có tuổi đẻ quả trứng đầu nhỏhơn 215 ngày là 6,9 quả. Khối lượng cơ thể và cấu trúc thành phần cơ thể là những nhân tốảnh hưởng đến tính thành thục của gà mái. Nhưng thực tế gà nặng cân lại đẻ ít trứng. Hocking và cs (Chambers, 1990) giải thích rằng nguyên nhân gây nên hiện tượng đẻ trứng ít của gà nặng cân là do tồn tại nhiều bao noãn, chúng thường xuyên lấn át buồng trứng. - Sản lượng trứng

  9. Sản lượng trứng gà sốlượng trứng của gia cầm mái đẻ trong một chu kỳđẻ hoặc trong một thời gian nhất định có thể tính theo tháng hoặc năm. Đối với gia cầm thì đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khảnăng hoạt động của hệ sinh dục. Theo Brandsch và Bilchel 1978 [2], sản lượng trứng được tính theo năm sinh học 365 ngày, kể từ ngày đẻ quả trứng đầu tiên. Nhiều hãng gia cầm khác ở Mỹvà Đức thì tính sản lượng trứng trong vòng 500 ngày đẻ. Hiện nay, các hãng gia cầm lớn trên thế giới chỉ tính sản lượng trứng gà bố mẹhướng thịt đến 9 tháng đẻ(270 ngày đẻ) và gà hướng trứng thương phẩm đến 18 tháng đẻ(540 ngày đẻ). Như vậy, đánh giá sản lượng trứng theo tỷ lệ phần trăm hoặc sốlượng trứng gà đẻ trong một thời gian nhất định là phương pháp thông dụng. Sản lượng trứng là một tính trạng sốlượng nên nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Theo Fairful và Gowe (1990) [16], sản lượng trứng gà là kết quảtác động của rất nhiều gen lên một sốlượng lớn các quá trình sinh hóa học. Khi điều kiện môi trường thích hợp (nhiệt độ, ánh sáng, dinh dưỡng), rất nhiều gen tham gia điều khiển tất cảcác quá trình liên quan đến sản xuất trứng, hoạt động cho phép gia cầm phát huy được đầy đủ tiềm năng di truyền của chúng. Sản lượng trứng được đánh giá qua cường độđẻ và thời gian kéo dài sựđẻ. + Tỷ lệđẻ là chỉtiêu đánh giá sức đẻ trứng của gia cầm. Đỉnh cao của tỷ lệ đẻ có mối tương quan với năng suất trứng. Giống gia cầm nào có tỷ lệđẻ cao và kéo dài trong thời kỳ sinh sản, chứng tỏ là giống tốt, nếu dinh dưỡng mà đảm bảo thì năng suất sinh sản sẽ cao. + ường độđẻ trứng là sức đẻ trong một thời gian nhất định. ường độ này được xác định theo khoảng thời gian 30 ngày hoặc 60 ngày hoặc 100 ngày trong giai đoạn đẻ. ường độđẻ trứng cao nhất vào các tháng thứ 2, thứ3, sau đó giảm dần cho đến hết năm đẻ. Đối với gà cao sản cường độđẻ trứng tăng nhanh từ khi bắt đầu đẻđến hết tuần 24 đạt 50% và đỉnh cao từ tuần 27 - 28, đến tuần

  10. 35 đạt: trên 90%, sau đó giảm dần và giữđược 60 - 65% ở tuần thứ 76. Khi cường độđẻ giảm nhiều gà thường hay biểu hiện bản năng đòi ấp. Sự xuất hiện bản năng đòi ấp phụ thuộc nhiều vào yếu tố di truyền, vì các giống khác nhau có bản năng ấp khác nhau. Điều này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tốnhư: nhiệt độ, ánh sáng, dinh dưỡng....Theo Brandsch và Bilchel (1978) [2] thì nhiệt độ cao và bóng tối kích thích sự ham ấp, đồng thời yếu tố gen chịu tác động phối hợp giữa các gen thường và các gen liên kết giới tính. Sốlượng trứng có tương quan di truyền âm với khối lượng cơ thểnhưng khối lượng trứng có tương quandương với khối lượng cơ thể. Gà mới đẻ lần đầu thường có khối lượng trứng nhỏ, sau đó tăng dần lên cùng với sự phát triển của cơ thể gà trong thời gian đẻ. + Thời gian kéo dài sựđẻcó liên quan đến chu kỳđẻ trứng. Chu kỳđẻ kéo dài hay ngắn phụ thuộc vào cường độ và thời gian chiếu sáng. Đây là cơ sở để áp dụng chiếu sáng nhân tạo trong chăn nuôi gà đẻ. Thời gian nghỉđẻ ngắn hay dài có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng trứng cảnăm. Gà thường hay nghỉđẻmùa đông do nguyên nhân giảm dần cường độ thời gian chiếu sáng tự nhiên. Ngoài sự nghỉđẻ này còn do khí hậu, sự thay đổi thức ăn, chu chuyển đàn. Là một tính trạng sốlượng có hệ số di truyền cao, do đó người ta có thể cải thiện di truyền bằng cách chọn lọc giống. Trong chọn lọc cần để ý tới số trung bình chung. Hệ sốtương quan giữa sản lượng trứng và thời gian nghỉđẻ cảnăm là rất chặt chẽ (r = 0,7 - 0,9). Thời gian kéo dài đẻ trứng là yếu tố quyết định sản lượng trứng. Tuy nhiên, mốc xác định thời gian đẻđể tính sản lượng trứng còn nhiều ý kiến và nó phụ thuộc vào nhiều nước khác nhau. - Khối lượng trứng Một tính trạng sốlượng quan trọng là thành phần thứ hai cấu thành năng suất trứng đó là khối lượng trứng. Khối lượng trứng phụ thuộc vào chiều đo quả trứng, vào khối lượng lòng trắng, lòng đỏ và vỏ. Ngoài ra, khối lượng trứng còn

More Related