0 likes | 13 Views
-Vu1edbi viu1ec7c phu00e1t triu1ec3n mu1ea1ng Internet hiu1ec7n nay thu00ec viu1ec7c tu00ecm hiu1ec3u, su01b0u tu1ea7m u0111u1ed3 du00f9ng du1ea1y hu1ecdc cu00f3 lu1ed3ng ghu00e9p di su1ea3n vu0103n hu00f3a lu00e0 ru1ea5t thuu1eadn lu1ee3i vu00e0 nhanh chu00f3ng nu00ean hu1ecdc sinh su1ebd hu1ecdc tu1eadp nhanh chu00f3ng cu00e1c tu1ea5m gu01b0u01a1ng tu1ed1t cho bu1ea3n thu00e2n.<br>- Mu00f4n mu0129 thuu1eadt lu00e0 mu00f4n hu1ecdc mu1edbi u0111u01b0a vu00e0o sau nu00e0y hu1ecdc sinh thu00edch tu00ecm su1ef1 su00e1ng tu1ea1o trong cu00e1c bu00e0i vu1ebd cu1ee7a mu00ecnh u0111u1eb7c biu1ec7t lu00e0 hiu1ec3u vu1ec1 giu00e1 tru1ecb, u00fd nghu0129a, nu1ed9i dung mu00e0 tranh mang lu1ea1i.<br>- Hu1ecdc vu1ebd cu00e1c phu00e2n mu00f4n chu1ee7 yu1ebfu, cu1ea3m nhu1eadn cu00e1i u0111u1eb9p u1edf thu1ebf giu1edbi xung quanh, tu1ea1o cu1ea3m hu1ee9ng trong viu1ec7c hu1ecdc tu1eadp.
E N D
MỤC LỤC Thứ tự 1 2 3 Nội dung Trang 2 2 2 2 I - Sơ lược lý lịch tác giả II - Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị III - Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến 5 3. Nội dung sáng kiến IV - Hiệu quả đạt được V - Mức độ ảnh hưởng VI - Kết luận 6 13 15 15 4 5 6 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT THCS ĐDDH SK Trung học cơ sở Đồ dùng dạy học Sáng kiến Trang 1 https://baigiang.com.vn/
PHÒNG GDĐT THOẠI SƠN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Định Mỹ, ngày 23 tháng 11 năm 2018 BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng dụng tiến bộ kỹ thuậthoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng I. Sơ lược lý lịchtác giả: - Họ và tên: …………………………. Nam, nữ: ………….. - Ngày tháng năm sinh: …………………….. - Nơi thường trú: ……………………………………….. - Đơn vị công tác: ………………………………... - Chức vụ hiện nay: ………………………………….. - Trình độ chuyên môn: …………………………………………………. - Lĩnh vực công tác:………………………………………………………….. II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: Nhà trường luôn tạo điều kiện cho giáo viên khai thác và chế tạo các đồ dùng dạy học mới. Sự hợp tác tốt giữa giáo viên học sinh tạo điều kiện cho đề tài sớm hoàn thành. - Thuận lợi: + Có phòng mỹ thuật, các dụng cụ mỹ thuật đầy đủ giúp việc lên lớp thuận tiện hơn. + Học sinh chịu khó sưu tầm và đọc trước bài học mới. + Có nhiều thông tin để nghiên cứu thông qua mạng internet. - Khó khăn: Giáo viên phải nghiên cứu kỹ phần hình ảnh và nội dung nào phù hợp để đưa vào bày dạy sao cho hợp lý và đảm bảo chuẩn kiến thức kỹ năng. - Tên sáng kiến/đề tài giải pháp: “Sử dụng ĐDDH có lồng ghép di sản văn hóa giúp HS lớp 6 học tốt các tiết chủ đề” - Lĩnh vực: áp dụng vào môn Mỹ Thuật khối 6 III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến: 1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: Giáo viên vẫn chưa định hình rõ lồng ghép di sản văn hóavào vị trí nào cho hấp dẫn, thu thu hút học sinh tìm hiểu rõ hơn. Thông qua tranh ảnh sinh động giúp các em tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng; từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Họcsinh yếu dễ tiếp thu bài, còn các em khá giỏi có điều kiện vươn lên trong học tập, kích thích óc tò mò khám phá vẻ đẹp. Trang 2 https://baigiang.com.vn/
Nội dung lồng ghép về di sản văn hóachưa có trong sách giáo khoa và vẫn còn là văn bản. Do vậy muốn đạt hiệu quả trong tiết học thì giáo viên phải làm thêm đồ dùng để phục vụ giảng dạy và cũng tránh sự nhàm chán ở học sinh, nhất là phân môn vẽ theo mẫu. Sách giáo khoa hiện tại vẫn chưa thay sách và việc lồng ghép tư tưởng Hồ Chí Minh vô bài học vẫn là công việc giáo viên tự nghiên cứu và tìm cách đưa vào bài dạy cho phù hợp. * Nguyên nhân chủ quan: -Với việc phát triển mạng Internet hiện nay thì việc tìm hiểu, sưu tầm đồ dùng dạy họccó lồng ghép di sản văn hóa là rất thuận lợi và nhanh chóng nên học sinh sẽ học tập nhanh chóng các tấm gương tốt cho bản thân. - Môn mĩ thuật là môn học mới đưa vào sau này học sinh thích tìm sự sáng tạo trong các bài vẽ của mình đặc biệt là hiểu về giá trị, ý nghĩa, nội dung mà tranh mang lại. - Học vẽ các phân môn chủ yếu, cảm nhậncái đẹp ở thế giới xung quanh, tạo cảm hứng trong việc học tập. * Nguyên nhân khách quan: - Tôi tìm hiểu thực tế đa số các em là con em của nông dân khó khăn, xa trung tâm thành phố, nên các em không có cơ hội để tìm hiểu, nghiên cứu tư liệu, tài liệu, tranh ảnh hoặc các bài viết hoặc xem các buổi triển lãm tranh, ảnh do Hội Văn Học Nghệ Thuật của huyện, tỉnh tổ chức. - Giáo viên lên lớp chưa sử dụng triệt để các loại đồ dùng dạy học đối với từng phân môn, từng bài. - Nhận thức của học sinh còn xem môn mĩ thuật là môn phụ nên chưa quan tâm đến vấn đềtự ý thứchọc tập, chưa nhận thức được thẩm mĩ trong đời sống hằng ngày nói chung và học mĩ thuật nói riêng. - Các tiết mỹ thuậtchưa được tiếp cận và tìm hiểu về đồ dùng dạy học có lồng ghép di sản văn hóa. - Học sinh còn lười trong việc rèn luyện kỹ năng vẽ, tìm hiểu tranh, ảnh, tư liệu cho bài học nên chất lượng chưa cao. * Những điểm chung: - Đồ dùng dạy học môn mỹ thuật có tranh ảnh rất ít cho nên việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học đó là yêu cầu cấp di sản văn hóa, di tích lịch sửh đốivới mỗi giáo viên, đồ dùng dạy học có một tấm gương tiêu biểu là nguồn kiến thức có tác dụng giáo dục tư tưởng tính cách của học sinh, tạo hứng thú cho học sinh phát huy tính tích cực, tư duy tìm tòi cách giải quyết những nội dung trên đồ dùng rèn luyện khả năng nói, diễn đạt. Qua đồ dùng trực quan này giúp các em từng bước nâng cao nhận thức làm cho tâm hồn trở nên phong phú, phát triển tồn diện nhân cách. - Trong thói quen giảng dạy của nhiều giáo viên nói chung, giáo viên giảng dạy mỹ thuật nói riêng sau khi nghiên cứu bài, thiết kế bài soạn rồi mượn một số đồ dùng thiết bị và tiến hành giờ dạy mà xem nhẹ việc nghiên cứu và sáng tạo thêm đồ dùng dạy học. * Tìm hiểu qua khảo sát các phân môn: Môn Mỹ thuật ở THCS được chia thành 4 phân môn với những đặc điểm sau: * Phân môn “ Vẽ theo mẫu ”: Vẽ theo mẫu phải quan sát từ đầu đến kết thúc bài vẽ. Quan sát để tìm ra “kiến thức”, vì vậy kết quả của bài vẽ phụ thuộc vào phương pháp quan sát. Trang 3 https://baigiang.com.vn/
Vẽ theo mẫu là vẽ từ mẫu thực, giáo viên khó đưa vào phần vẽ tranh, hay quan sát tranh mẫu mà chỉ có thể đưa vào phần liên hệ thực tế nói về đồ vật của Di sản văn hóa, di tích lịch sửHồ để gợi mở vật mẫu. Với những đặc điểm đó, cần vận dụng những phương pháp sau đây khi dạy vẽ theo mẫu: quan sát, gợi mở, trực quan, liên hệ thực tiễn cuộc sống. Đây là phân môn “ khô ” nhất trong các phân môn, tương đối khó dạy do đó giáo viên ít quan tâm đến đồ dùng dạy học có lồng ghép di sản văn hóađể tìm ra những nét khác nhau giữa các bài. Về phía học sinh, đây cũng là phân môn khó nhất không thích bằng phân môn vẽ trang trí hay vẽ tranh đề tài. Trên thực tế, giáo viên khó liên hệ tranh ảnh, ĐDDH có lồng ghép di sản văn hóa vào, các phân môn khác thì có nhiều phương pháp để đưa vào bài học. * Phân môn “ Vẽ trang trí ”: Trang trí mang màu sắc dân tộc rõ nét nhất, bởi nó xuất phát từ nhu cầu cuộc sống của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và như vậy nó mang tính giáo dục sâu sắc. Vẽ trang trí cũng từ những mẫu, từ kiến thức chung nhưng người vẽ có thể suy nghĩ, tìm tòi để tạo ra bài vẽ, sản phẩm khác một phần hoặc khác hoàn toàn về hình dáng, bố cục, màu sắc…Vì thế đặc điểm của trang trí là suy ngẫm - tìm tòi - sáng tạothường xuyên liên tục để luôn có cái mới, cái đẹp không lặp lại chính mình, không giống với người khác. Trang trí tạo cho học sinh nếp nghĩ, phương pháp làm việc khoa học, tư duy sáng tạo, góp phần hình thành phẩm chất con người lao động.Trang trí gần gũi, gắn bó với cuộc sống vì nó tạo tra những sản phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày cho tất cả mọi người trong xã hội. Đối với phân môn này giáo viên thường chọn phương pháp lồng ghép hoa văn trang trí thời Lý, hoa văn trong nghệ thuật trang trí đình, chùa… hoặc nghệ thuật trang trí trên áo của đồn bào các dân tộc miền núi và đồng bằng…nhưng cũng chưa khai thác triệt để việc học sinh vẽ di sản văn hóavào vị trí nào cho hợp và chưa định hình được phương pháp đưa vào cho phù hợp. Đây cũng là mọt khó khăn cho giáo viên khi áp dụng vào bài dạy. Trong dạy học phân môn này cần sử dụng các phương pháp sau: trực quan, gợi mở, luyện tập. * Phân môn “ Vẽ tranh ”: Khai thác đề tài: từ đề tài chung mỗi người tìm ra cách thể hiện sâu sắc, độc đáo, tìm ra những hình tượng điển hình để có thể diễn tả được tư tưởng chủ đề, ý đồ của người vẽ, khơigợi được sự tìm tòi và cảm nhận của người xem. Phản ánh một cách sinh động bằng sự quan sát và hiểu biết cuả người vẽ; vì thế, vẽ tranh đề tài là thể hiện sự hiểu biết nhiều mặt về cuộc sống, tự do tạo điều kiện cho người vẽ có ý thức tìm hiểu thế giới xung quanh. Giáo viên chưa xây dựng được hình ảnh các công trình kiến trúc được công nhận là di sản văn hóa trong bài vẽ tranh, khai thác triệt để hình ảnh hoạt động ở các địa phương có di sản văn hóa, công trình kiến trúc mang được công nhận di tích lịch sử, văn hóa, di tích cấp quốc gia…v.v..để đưa vào bài dạ. Sử dụng nhiều tranh của họa sĩ vẽ về di sản văn hóa. Khi dạy vẽ tranh cần vận dụng các phượng pháp sau: quan sát, liên hệ thực tiễn với cuộc sống. Bên cạnh sử dụng các trực quan là bài vẽ của học sinh và họa sĩ để các em nắm bắt được nội dung. Trang 4 https://baigiang.com.vn/
* Phân môn “ Thường thức mỹ thuật ”: Thường thức mỹ thuật nâng cao trình độ văn hoá chung cho học sinh, bồi dưỡng thẩm mỹ thị giác, giáo dục tình yêu quê hương đất nước và tạo điều kiện cho các em học tập các phân môn khác có hiệu quả hơn.Giáo viên chưa sưu tầm tranh ảnh nhiều về di sản văn hóa, di tích lịch sửđể học sinh tham khảo và tìm hiểu, chưa chỉ rõ sẽ vẽ hình di sản văn hóa, di tích lịch sửở đâu. Phương pháp dạy thích hợp của phân môn này là: quan sát, vấn đáp, đàm thoại, luyện tập, liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Giáo viên cần sưu tầm, tìm hiểu nhiều tranh ảnh liên quan di sản. Lịch sử mỹ thuật gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của một đất nước, một vùng hay một mốc thời gian. Do đó dạy và học phân môn này cần có kiến thức về các môn khoa học xã hội và có cách nhìn tổng quát, nhận xét sâu sắc, phân tích có cơ sở. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm giáo dục thẩm mỹ cho các em và tạo điều kiện cho các em sáng tạo ra cái đẹp, nâng cao khả năng nhận thức thẩm mỹ của các em. Không những thế, học Mỹ thuật còn giúp các em hiểu về cái đẹp để sống và hoạt động theo quy luật của cái đẹp và hơn thế nữa một trong những cái đẹp mà chúng ta cần giáo dục cho học sinh đó là tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Giáo viên nên lòng ghép về di sản văn hóabằng máy vi tính, lưu trữ để bổ sung chỉnh sửa, tiến tới sử dụng giáo án tin học, điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các phần mềm vào dạy học. Công nghệ thông tin hiện nay rất phát triển, nếu chúng ta biết khai thác mạng Internet để làm đồ dùng trực quan trong giảngdạy sẽ tạo hứng thú cho học sinh ham học tập, nắm chắc kiến thức hơn ở các môn học nói chung và môn Mỹ thuật nói riêng. Việc vận dụng những tranh ảnh của về Di sản văn hóa, di tích lịch sửphù hợp với thực tế trong việc dạy học theo chương trình thay sách hiện nay. Hình ảnh ĐDDH có lồng ghép di sản sẽ làtrực quanthực tế cuộc sống giúp giáo dục giáo dục học sinh về nhiều mặt khác nhau của cuộc sống và trong bài học mà giáo viên cần hướng tới. Môn Mỹ thuật được ngành Giáo dục và mọi người quan tâm, bên cạnh những thành công bước đầu đạt được việc dạy và học Mỹ thuật còn nhiều hạn chế và khó khăn. Trong dạy học, đồ dùng dạy học đóng vai trò rất quan trong trong suốt quá trình dạy học. Đối với môn Mỹ thuật, đồ dùng dạy học càng quan trọng hơn, nó làm tăng hiệu quả của tiết dạy rất nhiều và ngày nay khi mà công nghệ thông tin đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, là một phần không thể thiếu trong một xã hội ngày càng hiện đại số.Trong thực tế giảng dạy hiện nay học sinh chưa quan tâm nhiều về đến việc sưu tầm tài liệu phục vụ môn học, chưa tìm hiểu nhiều về đồ dùng dạy học phục vụ cho môn học của mình. Như vậy muốn học sinh tiếp thu bài tốt, nắm vững được kiến thức bài học người giáo viên cần biết kết hợp lòng ghép tấm gương người tốt, việc tốt, di sản văn hóacó sức ảnh hưởng lớn sẽ là một trong những tấm gương điển hình để đưa bài soạn, bài giảng, bài kiểm tra, các sản phẩm đồ dùng dạy học có như vậy sẽ nâng tầm bài dạy đảm bảo chất lượng rất nhiều… Xuất phát từ những nhu cầu trên tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu, để đạt được những yêu cầu trên trong việc dạy và học giáo viên cần phải sử dụng triệt để các loại đồ dùng đã có, tự làm hoặc sưu tầm.Việc sưu tầm và sử dụng các ĐDDHcó lồng ghép di sản trong dạy học môn Mỹ thuật là một vấn đề cần thiết để giúp các em học sinh có ý thức và Trang 5 https://baigiang.com.vn/
trách nhiệm với bài vẽ của mình. Thôngqua hình ảnh sống động người thật, việc thật trong ĐDDH sẽ kích thích học sinh hưng phấntrong học tập. Người giáo viên có đầu tư khai thác tranh ảnh trên mạng thìkiến thức mới được mở rộng để áp dụng vào việc dạy có hiệu quả hơn, giúp các em yêu môn học hơn. Theo yêu cầu chung, một tiết dạy tốt là phải có sử dụng đồ dùng dạy học.Từ đồ dùng trực quan đó học sinh thấy thích thú, tạo cho mình một cách học riêng. 3. Nội dung sáng kiến: Từ những vấn đề cơ bản đó thì đối với các phân môn, phương pháp giảng dạy phù hợp là phương pháp quansát và phương pháp liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Ngoài ra là sự kết hợp các phương pháp dạy học như gợi mở, vấn đáp, luyện tập.vv... Đối với mỹ thuật thì liên hệ với thực tiễn cuộc sống là một điều hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc tìm và lựa chọn ĐDDH có lồng ghép di sảnđược sâu sắc hơn, nêu rõ trọng tâm hơn. 3.1) Tính thuyết phục của đề tài: a.Tìm hiểu một số phương pháp: Dạy Mỹ thuật cũng là dạy học, vì Mỹ thuật cũng là một môn học ở trường phổ thông. Do vậy, dạy Mỹ thuật cũng phải tuân theo những phương pháp chung và có phương pháp riêng. Đối với môn học Mỹ thuật có thể kể đến một số phương pháp thường vận dụng sau: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp vấn đáp. - Phương pháp gợi mở. - Phương pháp luyện tập. - Phương pháp liên hệ thực tiễn với cuộc sống. Đối với môn học Mỹ thuật đó là môn học trực quan, do vậy dạy Mỹ thuật ở trường THCS dạy trên đồ dùng dạy học là chủ yếu. Đề tài này nhằmnghiên cứu về sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Mỹ thuật nên phương pháp trực quan sẽ được phân tích sâu hơn. b. Trực quan trong dạy học Mỹ thuật: Mỹ thuật là môn học trực quan. Đối tượng của môn Mỹ thuật thường là những gì ta có thể nhìn thấy, sờ được - có hình, khối, có đậm nhạt, có màu sắc, ở xung quanh ta, gần gũi và quen thuộc. Dạy học nói chung và dạy học Mỹ thuật nói riêng bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao. Riêng với Mỹ thuật, tất cả các loại bài học đều phải sử dụng đồ dùng dạy học. Dạy Mỹ thuật dạy trên đồ dùng dạy học. Do vậy đồ dùng dạy học là nội dung, kiến thức của bài học. Đồ dùng dạy học còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học , trình độ của học sinh. c. Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật: Hình thức đồ dùng dạy học cần có kích thước vừa phải, dễ quan sát, có trọng tâm, đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh. Trình bày đồ dùng dạy học cần rõ ràng, khoa học, kết hợp giữa trình bày và lý thuyết giới thiệu trực quan đúng lúc, sao cho lời nói hấp dẫn vàminh hoạ đẹp hoà quyện làm một, tạo điều kiện cho học sinh nhận thức nhanh, nhớ lâu. Nói đến phương pháp trực quan tức là đề cập đến sao cho học sinh thấy được ngay, thấy một cách rõ ràng, cụ thể và hiểu nhanh, nhớ lâu, đồng thời có hứng thú học tập, dù là những khái niệm như cân đối, hài hoà hay những gì ẩn chứa trong bố cục,nét Trang 6 https://baigiang.com.vn/
vẽ, màu sắc…mà nghệ sĩ muốn nói. Như vậy, phương pháp trực quan yêu cầu, giáo viên dạy Mỹ thuật ở góc độ nhận thức cụ thể như sau: Về nhận thức: giáo viên phải coi trực quan và phương pháp trực quan là cần thiết, là nội dung bài dạy. Về chuẩn bị: chủ động nghiên cứu bài dạy, tự tìm và thiết kế đồ dùng dạy học sát với nội dung. Về phương pháp: sử dụng trực quan giáo viên cần lưu ý: Phân loại đồ dùng sao cho hợp với nội dung, thích hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của học tập và ý đồ của giáo viên. d.Giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật: d.1.Các loại giáo cụ trực quan: Giáo cụ trực quanmôn Mỹ thuật là tất cả những phương tiện sử dụng trong tiết dạy môn Mỹ thuật. Có thể kể đến các loại đồ dùng (phương tiện)đó là: - Vật mẫu: nhiều chất liệu, hìnhdáng phong phú (có thể tự làm) như: hoa quả, các khối hộp, cái phích, ấm tích, khối cầu, tượng… - Hình mẫu: dưới dạng vật thật hoặc tự vẽ như: chén đĩa, khăn, gạch hoa… - Mô hình: kích thước vừa phải, tiện lợi như: mô hình trại… - Tranh ảnh: + Tranh nguyên bản, phiên bản: tranh thiếu địa danh, tranh hoạ sĩ, tranh dân gian, tranh có họa tiết thuộc di sản văn hóađịa phương, di tích lịch sử… + Ảnh chụp theo đề tài, hoặc sưu tầm qua sách báo… - Sơ đồ: sơ đồ có minh hoạ các bước vẽ. - Sách giáo khoa, học sinh có thể tham khảo thêm sách thực hành Mỹ thuật. - Bài vẽ của học sinh năm trước. - Minh hoạ bảng. - Đồ dùng dạy học: phấn, thước kẽ, bút chì, giấy vẽ… - Phương tiện hiện đại: máy chiếu, giáo án điện tử, laptop hỗ trợ giảng dạy d.2.Vị trí, vai trò của giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật: Mỹ thuật là môn học phải có giáo cụ trực quan vì Mỹ thuật là môn rèn luyện bồi dưỡng và phát triển khả năng cảm thụ thị giác nên Mỹ thuật thông qua trực quan dạy cho học sinh quan sát, so sánh đối chiếu, phân tích nhằm lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo. Giáo cụ trực quan nhằm mục đích cụ thể hoá bài giảng , tăng thêm hiểu biết cho học sinh, giúp học sinh thu nhận thông tin về các sự vật, hiện tượng một cách đầy đủ và chính xác. Giáo cụ trực quan nhằm kích thích tò mò và chăm chú, theo dõi bài giảng, gợi ý cho học sinh hoặc để giải thích chứng minh cho một luận cứ, quy tắc nào đó. Mặc dù giáo cụ trực quan hết sức quan trọng nhưng cũng hết sức nguy hiểm vì tâm lý chung của học sinh là hay bắt chước. Nhờ giáo cụ trực quan để thấy được cái hay, cái đẹp, tránh được cái chưa đạt, thấy rõ mục tiêu bài học, khắc sâu kiến thức hơn nữa, thế nhưng phải biết sử dụng hợp lý, đúng lúc. Giáo cụ trực quan là phương tiện giúp trẻ tiếp thu nhận thức tốt lý thuyết cũng như hướng dẫn thực hành, từ đố gây cho các em niềm say mê hứng thú trong cái hay, cái đẹp, hình thành thị hiếu tốt, đồng thời giúp các em học tốt các môn khác. 3.2) Một số biện pháp lồng ghép nhằm giúp các em có ý thức hơn: Trang 7 https://baigiang.com.vn/
học. Phần lớn giáo viên đều cho rằng: giáo cụ trực quan của môn Mỹ thuật hiện nay là chưa đầy đủ, phần lớn đều do giáo viên tự thiết kế thêm,… Bên cạnh đó giáo viên đã ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Mỹ thuật và mang lại hiệu quả cao, gây hứng thú cho học sinh đặc biệt là trong các tiết học phân môn thường thức Mỹ thuật. Với cách dạy này giáo viên có thể sử dụng nhiều hình ảnh về di sản văn hóa, di tích lịch sửđể lồng ghép vàobài học và củng cố kiến thức; giới thiệu nhiều trang web để học sinh tự tìm hiểu thêm. Như vậy khó khăn lớn nhất của giáo viên giảng dạy môn Mỹ thuật ở trường THCS Định Mỹ hiện nay là thiếu giáo cụ trực quan, nhưng nếu tự làm thêm thì không đủ kinh phí. 3.3) Một số giải pháp chung khi sử dụng ĐDDH: Qua tìm hiểu về cơ sở lý luận, tìm hiểu thực tiễn về việc sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS Định Mỹ tôi xin đưa ra một số giải pháp sau: Khi học sinh làm bài giáo viên cần xem kĩ những trực quan nào cần để lại để học sinh xem, những trực quan nào nên cất đi. Đối với bài Vẽ theo mẫu, giáo viên nên sưu tầm những đồ vật có liên quan di sản văn hóa, di tích lịch sửhay sử dụng thông qua tranh ảnh sưu tầm. Cách sử dụng giáo cụ trực quan: có thể treo tranh theo từng bước giảng, giảng nội dung nào treo tranh đó. Hoặc treo tất cả các tranh một lần rồi phân tích từng tranh. Giáo viên cần nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo cụ trực quan để từ đó có kế hoạch soạn bài dạy và chuẩn bị trực quan chu đáo, hiệu quả. Cần phân loại trực quan cho phù hợp với nội dung, thời gian bài dạy. Kích cỡ trực quan tương đối, rõ ràng, đẹp, đảm bảo nội dung để thu hút tầm nhìn. Trình bày phải rõ ràng, khoa học, kết hợp với minh hoạ bảng, tạo điều kiện cho học sinh nhận thức nhanh, nhớ lâu. 3.4) Một số phương pháp lồng ghép di sản văn hóakhi thiết kế giáo cụ trực quan cho các phân môn trong dạy học Mỹ thuật: a) Phân môn “ Vẽ theo mẫu ”: Bài “ Mẫu có hai đồ vật ”, giáo viên có thể sử dụng các mẫu như: các loại nhạc cụ dân tộc: song lang, đàn tranh, đàn bầu, trống…nếu không có mẫu vật thực tế giáo viên có thể in hình ra để học sinh xem. Việc sử dụng nhiều vật mẫu giúp giáo viên dễ liện hệ di sản văn hóahơn. Ví dụ: với song lang, các loại đàn chúng ta có thể cho học sinh mở bài bằngviệc chơi trò chơi đoán đồ vật hoặc tên loại hình nghệ thuật thấy trong tranh,học sinh ghi lên bảng ghi nhận những đồ vật hoặc loại hình nghệ thuật nhìn thấy trên tranh ảnh mà giáo viên treo lên bảng… Một số vật mẫu vẫn chưa đầy đủ giáo viên tự tìm kiếm hoặc phải chuẩn bị để dạy Trang 8 https://baigiang.com.vn/
Nhạc cụ có liên quan đến đờn ca tài tử nam bộ: song lang - đàn kìm (thuộc di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam) Loại hình nghệ thuật Ca trù - di văn hóa phi vật thể của Việt Nam Trang 9 https://baigiang.com.vn/
Loại hình nghệ thuậtĐờn ca tài tử nam bộ - di văn hóa phi vật thể của Việt Nam Tranh ảnh mẫu các đồ vật dễ liên tưởng đến một loại hình nghệ thuật hay một công trình kiến trúcsử dụng để liên hệ lồng ghép di sản văn hóavào bài học Giáo viên có thể cho học sinh lên bảngviết những đồ vật mà em biết về đồ vật nhìn thấy, học sinh có thể sưu tầm tranh ảnh, mẫu vật tương tự mà em biết để phục vụ cho tiết dạy hấp dẫn hơn. Bên cạnh giáo viên cần sử dụng một số trực quan về các công trình, kiến trúc, các đồ vật, họa tiết có hình ảnh gợi liên tưởng đến di sản văn hóađể học sinh nhận xét ra những kiến thức cho bài vẽ của mình. b)Phân môn “ Vẽ trang trí ”: Giáo viên có thể áp dụng đối với bài 14: Vẽ trang trí - Chép họa tiết trang trí dân tộc và bài 11: vẽ trang trí - Trang trí đường diềm,bài 15: vẽ trang trí –Trang trí tự do, bài 17,18: vẽ trang trí - trang trí hình vuông…trong hoạt động hướng dẫn học sinh cách vẽ có thể sử dụng giáo cụ trực quan sau: (Tên gọi: “ sắp xếp các họa tiết dân tộc lên hình tròn, hình vuông, đường diềm) học sinh lên bảng sắp xếp nhanh một họa tiết liên quan đến một công trình kiến trúc địa phương, giáo viên nên chuẩn bị trước các mảng hình cần sắp. Chú ý: tập trung làm mảng hình di sản văn hóa, di tích lịch sửcó ý nghĩa để in hoặc vẽ rõ ràng. Với trực quan này giáo viên có thể vận dụng cho nhiều bài trang trí khác nhau, hoạt động này sẽ gây hứng thú cho học sinh, tạo ra nhiều bất ngờ khi giáo viên cho xuất hiện từng bước…Đối với cách thường sử dụng là: vẽ sơ đồ các bước có hình vẽ như vậy khi treo lên học sinh đã thấy rõ ngay các bước và sẽ không còn thú vị, hấp dẫn. Không những thế, đối với bước phác mảng giáo cụ trực quan này còn giúp cho giáo viên chuẩn bị minh hoạ nhiều cách phác mảng và mảng không hợp lý một cách dễ dàng. Trực quan hình vẽ của giáo viên cũng nên sử dụng những hình ảnh dễ nhìn, dễ quan sát để học sinh thấy rõhình ảnh về di sản văn hóa, di tích lịch sử. Lựa chọn bài của Trang 10 https://baigiang.com.vn/
học sinh cũng nên chọn những bài vẽ có hình ảnh vẽ gần giống di sản văn hóa, di tích lịch sử. c) Phân môn “ Vẽ tranh ”: Đối với phân môn này giáo viên nên lồng ghép nội dung và không khí tiết học sao cho thích hợp với nội dung đề tài của bài. Đặt biệt là trong phần vào bài cần sử dụng những đồ dùng hấp dẫn thu hút học sinh. Ví dụ: bài 31:Vẽ tranh –đề tài tự chọn, bài 34,35: vẽ tranh- Đề tàiquê hương em… giáo viên nên cho họcsinh xem hình vẽ thật đẹp về di sản văn hóa, di tích lịch sử và cho cả lớp cùng hát một bài hát về di sản văn hóa, di tích lịch sử…để tạo ra không khí của những hình ảnh trong tranhtrong toàn bộ bài dạy chúng ta có thể mở bài bằng cách: cho một vài em học sinh đóng vai các nhân vật trong từng bài và giáo viên gợi ý, dẫn nhập vào bài…Trong toàn bộ bài này giáo viên có thể sử dụngnhững câu nói mang tính kể chuyện những vật dụng trong tranh. Ví dụ chúng ta có thể để tất cả những đồ dùng dạy học haytrực quan chúng ta trong một cái khung (có thể lấy được hình ảnh ra vào) Trang 11 https://baigiang.com.vn/
hình phẳng” như trên. Nên lựa chọn trực quan điển hình, sát nội dung, thể hiện rõ nội dung. Trực quan bài vẽ học sinh nên lựa chọn cả bài đẹp và bài chưa đẹp. Ở phân môn này giáo viên cũng có thể sử dụng các đồ dùng phục vụ cho trò chơi để học sinh thấy nội dung đề tài phong phú hơn…Ví dụ như: trong bài “ vẽ tranh-tranh phong cảnh” giáo viên có thể chuẩn bị thêm bảng, hoặc lên bảngkể tên những hoạt động mà em biết về di sản văn hóa, di tích lịch sửliên quan đến đề tài này ( học sinh chuẩn bị và sưu tầm trước bài học ở nhà sẽ trả lời rất nhanh chóng). d)Phân môn “ Thường thức mỹ thuật ”: Phân môn này có thể áp dung trong các bài sau: bài 12: thường thức mỹ thuật- Sơ lược về mĩ thuật thời Lý (1010-1225), bài 13: thường thức mỹ thuật - Một số công trình tiêu biểu của MT thời Lý. Đây là phân môn lý thuyết không thực hành, giáo viên cần chuẩn bị các dụng cụ đầy đủ đặc biệt là tranh ảnh. Cần sưu tầm thêm tranh ảnh thông qua sách báo. Trong quá trình dạy giáo viên có thể yêu cầu học sinh phân tích những tranh ảnh sưu tầm được hoặc tổ chức các trò chơi bằng những dụng cụ trực quan hấp dẫn tự sáng chế như chơi giải đáp ô chữ nói về các di sản của các công trình kiến trúc thời Lý… Với phân môn này chúng ta cũng có thể sử dụng trực quan với tên gọi“Ti vi màng Khu trung tâm - Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội (Di sản Văn hóa Thế giới) Trang 12 https://baigiang.com.vn/
Khu di tích Cố đô Huế (Di sản Văn hóa Thế giới Đối với phân môn này giáo viên có thể sử dụng công nghệ thông tin để dạy học rất thuận lợi. Các tranh ảnh có thể truy cập mạng internet để chuẩn bị cho bài giảng. Như vậy khi thiết kế đồ dùng dạy học cho các phân môn chúng ta cần chú ý đến nội dung, trực quan phải khoa học, dễ sử dụng và tạo được hứng thú cho học sinh. Những trực quan này đã được sử dụng trong dạy học tại trường THCS Định Mỹ. Kết quả là học sinh rất thích thú, phát biểu bài sôi nổi và chất lượng học tập của các em đã có chuyển biến rõ rệt. IV. Hiệu quảđạt được: 1. Kết quả đạt được: -Như vậy qua quá trình tìm hiểu, tôi rút ra một số đánh giá chung về thực trạng sử dụng màu sắc của học sinh. - Giáo viên giảng dạy môn Mỹ thuật đã tiến hành nghiên cứu và cho học sinh quan sát nhiều tranh, so sánh cách sử dụng màu trong vẽ tranh để tiết học đạt hiệu quả cao. Bên cạnh giáo viên đã tiến hành giảng dạy bằng công nghệ thông tin thu hút học sinh tham gia và phát huy khả năng sử dụng máy tính của học sinh, học sinh thấy việc sử dụng màu sắc phong phú. Với những yêu cầu của giáo viên, học sinh đã sưu tầm nhiều tranh ảnh, tư liệu cho bài học trên cơ sơ đó giáo viên đã cho học sinh tự giới thiệu trực quan của bài học. Để thấy rõ hơn kết quả của việc sử dụng giáo cụ trực quan có lồng ghép di sản văn hóavào các phân môn Mỹ thuật ở trường THCS Định Mỹ tôi đã tiến hành tìm hiểu qua học sinh bằng phiếu điều tra và kết quả như sau: tổng số phiếu phát ra cho các lớp 6A1, 6A2, 6A3, 6A4. Trang 13 https://baigiang.com.vn/
Trong đó: Lớp 6A1 Lớp 6A2 Lớp 6A3 Lớp 6A4 30 phiếu 29 phiếu 31 phiếu 24 phiếu + Câu hỏi 1: “ Các em thấy giáo cụ trực quan có lồng ghép di sản văn hóacó cần thiết đối với quá trình học tập môn Mỹ thuật hay không ? ” Kết quả thu được: Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Số lượng 142 16 % 91,6 8,4 Như vậy chúng ta nhận thấy, 91,6 % học sinh nhận thấy được tầm quan trọng của giáo cụ trực quan có lồng ghép di sản văn hóavào bài học do giáo viên chuẩn bị đối với tiết học của mình. Chứng tỏ các em thấy bản thân học tập thích thú hơn, hiệu quả hơn đối với những tiết có giáo cụ trực quan này. + Câu hỏi 2:Các em thấy giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan có hấp dẫn không? Hấp dẫn, lôi cuốn Tạm được Không hấp dẫn Qua câu trả lời của các em chúng tacó thể thấy là: giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan lồng ghép di sản văn hóavào bài họcđầy đủ,sử dụng ở một sốtiết trong một lớp sẽ dễ tiếp thu kiến thức tốt hơn. + Câu hỏi 3:Các em thấy giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan bài nào hấp dẫn nhất ? Hầu hết các em đều cho rằng giáo viên đã sử dụng giáo cụ trực quan trong các bài thuộc phân môn vẽ trang trí, thường thức mỹ thuật là hấp dẫn, đầy đủ và lôi cuốn các em học tập. Ví dụ như : bài 14: Vẽ trang trí - Chép họa tiết trang trí dân tộc, bài 12: thường thức mỹ thuật - Sơ lược về mĩ thuật thời Lý (1010-1225). + Câu hỏi 4: Khi giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan các em thấy lớp tham gia như thế nào ? Thu hút cả lớp Chỉ vài bạn hăng say theo dõi Bình thường Hầu hết các bạn không thích Qua bảng tổng kết này chúng ta thấy các em khá hăng say với những tiết học có sử dụng giáo cụ trực quan lồng ghép di sản văn hóavào bài học. Nhưng có 22.5 % cho rằng chỉ vài hăng say theo dõi như vậy là do học sinh không thích thú với môn học cũng có thể giáo viên sử dụng trực quan chưa làm các em theo dõi. + Câu hỏi 5: Các em có về nhà tìm kiếm tranh ảnh để lên trìnhbày trong tiết học hay không ? Qua câu trả lời của các em, tôi thấy trong một số tiết thường thức Mỹ thuật giáo các em học sinh trong mỗi tổ sưu tầm tranh ảnh và sau đó lên giới thiệu với lớp (kể các khối 6, 7 hay 8). + Câu hỏi 6:Trong quá trình vẽ bài các em có thường hay vẽ theo những bức tranh của giáo viên đưa ra không ? Không cần thiết 0 0 Hoàn toàn không 0 0 98 40 17 63,2 % 25.9 % 10,9 % 97 35 23 0 62,5% 22.5% 15 % 0 Trang 14 https://baigiang.com.vn/
Không Thỉnh thoảng có. Thường xuyên 119 31 5 76,7 % 20 % 3.3 % Ý kiến khác: Không hiệu quả, không làm cho học sinh bắt chước vẽ theo. Chỉ một phần nhỏ (20 %) thỉnh thoảng có vẽ theo một vài bài, nhưng bên cạnh một số ý kiến khác đã cho rằng các em đã biết cách dựa vào các bài vẽ, tranh ảnh của giáo viên cho xem để từ đó làm cơ sở cho bài vẽ của mình. 2. Tác dụng của sáng kiến: Nghiên cứu SK“Một số phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học có lồng ghép di sản văn hóavào môn Mỹ Thuật”giúp bản thân tôi nói riêng và những giáo viên Mĩ thuật nói chung, có thêm một kinh nghiệm góp phần nâng cao hứng thú học tập của học sinh phát huy được tư duy, khả năng sáng tạo để từ đó nâng cao được chất lượng tiết dạy của giáo viên và các bài thực hành của học sinh đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Với SKnày tôi hy vọng được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc dạy và học môn Mĩ thuật ở THCS đạt kết quả cao.Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thông qua ngôn ngữ tạo hình.Cung cấp cho học sinh một số kiến thức phổ thông về Mỹ thuật. Giúp học sinh nhận thức sâu sắc hơn về nền Mỹ thuật của dân tộc và thế giới. Tạo điều kiện cho học sinh tiếo thu tốt hơn tri thức các môn học khác. Định hướng cho một bộ phận học sinh học tiếp ngành Mỹ thuật, hay tạo điều kiện cho các em thi vào các trường chuyên nghiệp có liên quan đến Mỹ thuật sau này dễ dàng hơn ( kiến trúc, mỹ thuật ứng dụng, …) V.Mức độ ảnh hưởng: Đối với môn mĩ thuật ở chương trình THCS có các phân môn cần sử dụng đồ dùng dạy học có lồng ghép di sản văn hóavào như: vẽ tranh, vẽ theo mẫu, vẽ trang trí. Phân môn thường thức mĩ thuật cần sử dụng dụng đồ DDDH nhiều hơn do đo yếu tố tiếp cận và giáo dục học sinh qua tư tưởng Hồ Chí Minh càng nhanh chóng và dễ dàng hơn. Qua phân môn vẽ trang trí của học sinh THCS, đặc biệt là học sinh trường THCS Định Mỹ Việc tìm hiểu về màu sắc,hình ảnh giúp các em cảm thụ cái đẹp và có nhiều yếu tố để khai thác như trong trang trí ứng dụng trang trí lều trại, trang trí đầu báo tường, vẽ tranh cổ động, thiết kế biểu trưng...). Đối với đề tài này, nhằm áp dụng cho thực tiễn giảng dạy tại trường vá các trường khác, tôi chỉ chọn tìm hiểu cách ứng dụng đưa di sản văn hóavào tranh, trong phạm vi các bài vẽ màu như: vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu. Từ mục đích của đề tài như vậy thì ý nghĩa của việc tìm hiểu đề tài này cũng rất quan trọng. Tìm hiểu đề tài này sẽ góp phần bồi dưỡng cho giáo viên mĩ thuật một kiến thức dồi dào về màu sắc và sự hiểu biết về màu sắc của các em một cách đầy đủ, từ đó người giáo viên mĩ thuật có phương pháp giáo dục với bộ môn này.Tìm hiểu đề tài này tạo điều kiện cho cho người giáo viên mĩ thuật một hứng thú với nghề nghiệp, hiểu được tâm lí của học sinh đối với môn mĩ thuật đặc biệt là sử dụng màu sắc. Nghiên cứu đề tài này còn để xác định trách nhiệm của người giáo viên trong việc giảng dạy mĩ thuật, nghiên cứu tìm ra những mặt ưu điểm của các em và từ đó có phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm lôi kéo các em vào môn học một cách có hứng thú. Tìm hiểu màu sắc của học sinh thì chúng ta sớm nhận biết tài năng của các em, phát hiện ra những học sinh có năng khiếu và từ đó có sự đầu tư và bồi dưỡng những kiến thức cần thiết, giúp các em phát triển năng khiếu của mình một cách khoa học và tốt nhất. Qua thống kê này chúng ta nhận thấy, giáo cụ trực quan mà giáo viên sử dụng có Trang 15 https://baigiang.com.vn/
VI. Kết luận: Thông qua việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học trên có lồng ghép di sản trong tiết học, giáodục học sinh tính thẩm mỹ và khơi dậy sự tìm tòi ham hiểu biết.Qua một thời gian giảng dạy bản thân nhận thấy việc thực hiện mộttiết dạy có sử dụng đồ dùng dạy học trực quanlồng ghép kiến thứ văn hóa, di sản địa văn hóa nhằmmang lại những kết quả như sau: Nâng cao hiểu biết làm và sử dụng đồ dùng dạy học. Tạo cho học sinhhứng thú hơn trong học tập, tiếp thu kiến thứcnhanh hơn và đồng thời tạo không khí lớp học sôi nổi hơn. Giảm bớt được nội dung ghi bảng. Từ đó GV có nhiều thời gian tổchức theo dõi các hoạt động của học sinh. Thông qua việc làm và sử dụng đồ dùng dạy có lồng ghép di sản, giáo dục học sinh tính thẩm mỹ và khơi dậy sự tìm tòi ham hiểu biếtcủa học sinh. Trên đây là những nội dung tạo hứng thú cho học sinh học tập bằngviệc sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuậtcó lằm ghép di sản văn hóa; Qua việc vận dụng của bản thân, tôi thấy giờ dạy đạt hiệu quả cao hơn. Học sinh rất thích học những tiếthọc có sử dụng đồ dùng dạy học. Học sinh nắm vững kiến thức, và vẽ đẹphơn. Là một giáo viên Mỹ thuật tôi đã đưa ra một số giải pháp và đã thực hiện một số tiết dạy trong thời gian qua với hy vọng phần nào khắc phục được khó khăn về sử dụng giáo cụ trực quancó lồng ghép di sản văn hóatrong dạy học Mỹ thuật của trường THCS Định Mỹ. Với sự quan tâm của các ban ngành, nhà trường và sự nổ lực của thầy và trò trường THCS Định Mỹ chắc chắn rằng chất lượng dạy và học môn Mỹ thuật ngày càng phát triển, đạt được những mục tiêucủa môn học. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Trang 16 https://baigiang.com.vn/