1 / 25

Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu Lớp 4

Mu00f4n Tiu1ebfng Viu1ec7t trong nhu00e0 tru01b0u1eddng Tiu1ec3u hu1ecdc chiu1ebfm mu1ed9t vu1ecb tru00ed vu00f4 cu00f9ng quan tru1ecdng. Nu00f3 nhu1eb1m hu00ecnh thu00e0nh vu00e0 phu00e1t triu1ec3n u1edf hu1ecdc sinh Tiu1ec3u hu1ecdc cu00e1c ku0129 nu0103ng nghe, nu00f3i, u0111u1ecdc, viu1ebft; cung cu1ea5p cho hu1ecdc sinh nhu1eefng hiu1ec3u biu1ebft su01a1 giu1ea3n vu1ec1 thu1ebf giu1edbi xung quanh. Qua u0111u00f3 bu1ed3i du01b0u1ee1ng tu00ecnh yu00eau Tiu1ebfng Viu1ec7t, gu00f3p phu1ea7n hu00ecnh thu00e0nh nhu00e2n cu00e1ch cho hu1ecdc sinh. Trong chu01b0u01a1ng tru00ecnh mu00f4n Tiu1ebfng Viu1ec7t u1edf Tiu1ec3u hu1ecdc, Luyu1ec7n tu1eeb vu00e0 cu00e2u u0111u01b0u1ee3c tu00e1ch thu00e0nh mu1ed9t phu00e2n mu00f4n u0111u1ed9c lu1eadp, cu00f3 vu1ecb tru00ed ngang bu1eb1ng vu1edbi cu00e1c phu00e2n mu00f4n khu00e1c nhu01b0 Tu1eadp u0111u1ecdc, Chu00ednh tu1ea3, Tu1eadp lu00e0m vu0103n...

StarkDDS
Download Presentation

Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu Lớp 4

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VẠN NINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN KHÁNH 2 SÁNG KIẾN ÑEÀ TAØI : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VẠN KHÁNH 2 Tên tác giả : NGUYỄN DUY HUY Năm học : 2018 - 2019 https://giaoantieuhoc.net/

  2. MỤC LỤC Trang I. Đặt vấn đề 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử củađề tài ........................................................................................... 2 3. Mục đíchnghiên cứuđề tài.............................................................................2 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu...........................................................2 5. Giới hạn (phạm vi)nghiên cứu ...................................................................... 2 6. Điểm mới trong kết quảnghiên cứu .............................................................. .3 II. Giải quyết vấn đề 1. Cơ sở lí luận của vấn đề...............................................................................4 2. Thực trạng của vấn đề .............................................................................. ...5 3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề ........................................... 10 4. Hiệu quả của đề tài .................................................................................... 24 III. Kết luận 1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày…………………………..26 2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng đề tài vào thực tiễn…………………27 3. Nêu kiến nghị, đề xuất…………………………………………………....27 4. Hướng phát triển của đề tài……..………………………………………..27 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 https://giaoantieuhoc.net/

  3. I. Đặt vấn đề : 1. Lý do chọn đề tài: Môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nó nhằm hình thành và phát triển ở học sinh Tiểu học các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết; cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về thế giới xung quanh. Qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học, Luyện từ và câu được tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với các phân môn khác như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn...Ngoài ra Luyện từ và câu còn được đặt trong các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt và trong giờ học của các môn học khác...Như vậy nội dung dạy về luyện từ và câu trong chương trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học nói chung ở Tiểu học, chiếm một tỷ lệ đáng kể. Điều đó nói lên ýnghĩa quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học. Nói đến dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học người ta thường nói tới 3 nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ. Phong phú hoá vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ nghĩa là xây dựngvốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí nhớ học sinh, để tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn ngữ (nghe - đọc, nói - viết)được thuận lợi. Chính xác hoá vốn từ là giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách chính xác - nhất là đối với những từ ngữ mà học sinh thu nhận được qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp học sinh nắm được nghĩa của những từ ngữ mới. Tích cực hoá vốn từ là giúp học sinh luyện tập, sử dụng từ ngữ trong nói - viết, nghĩa là giúp học sinh chuyển hoá những từ ngữ tiêu cực (từ ngữ mà chủ thể hiểu nhưng không hoặc ít dùng) thành những từ ngữ tích cực (từ ngữ được chủ thể sử dụng trong nói - viết),phát triển kỹ năng, kỹ xảo phát triển từ ngữ cho học sinh. Do Luyện từ và câu là một phân môn mới và khó, cho nên giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức một tiết dạy - học Luyện từ và câu sao cho đúng yêu cầu của phân môn, đúng đặc trưng của phân môn và đạt được hiệu quả dạy - học cao. Dưới cái nhìn của giáo viên, có thể nói một số nội dung giảng dạy (được trình bày trong sách giáo khoa) còn ít nhiều xa lạ và phương pháp dạy phân môn này hầu như chưa định hình, cho nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy. Giáo viên có tâm lý ngại dạy Luyện từ và câu. Hiệu quả dạy - học giờ Luyện từ và câu nhìn chung còn thấp. Cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ luyện từ và câu còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo viên, hầu như rất ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh. Điều kiện giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, các tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy Luyện từ và câu cũng như tranh ảnh, vật chất và các đồ dùng dạy học khác chưa phong phú. Mặt khác, học sinh ít hứng thú học phân môn này. Hầu hết các em được hỏi ý kiến đều cho rằng: Luyện từ và câu là một môn học khô và khó. Một số chủ đề còn trừu tượng, khó hiểu, không gần gũi quen thuộc. Bên cạnh đó, cách 2 https://giaoantieuhoc.net/

  4. miêu tả, giải thích nghĩa một số từ trong sách giáo khoa còn mang tính chất ngôn ngữ học, chưa phù hợp với lối tư duy trực quan của các em. Trong sách giáo khoa, có những loại bài tập hoặc xuất hiện quá nhiều, gây tâm lý nhàm chán (điền từ) hoặc yêu cầu được nêu ra trong bài tập không rõ ràng, không tường minh và khó thực hiện (bài tập dùng từ viết thành đoạn văn ngắn). Điều này dẫn đến tâm lý mệt mỏi, ngại học phân môn Luyện từ và câu ở các em. Do vậy việc tổ chức cho học sinh học phân môn Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có biện pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy Luyện từ và câu cho học sinh. Từ tình hình thực tế nêu trên và nhận thức được tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ở trường Tiểu học Vạn Khánh 2” để nghiên cứu sâu hơn về biện pháp tổ chức dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. 2. Lịch sử của đề tài Trước đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về nội dung này. Tuy nhiên về chất lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu của học sinh lớp 4 nói chung và học sinh lớp 4 trường Tiểu học Vạn Khánh 2nói riêng vẫn chưa đạt kết quả cao. 3. Mục đích nghiên cứuđề tài Qua nghiên cứu đề tài, bản thân và đồng nghiệp tìm ra được các biện pháp giảng dạy phân môn Luyện từ và câutối ưu, giúp học sinh tiếp thu và vận dụng kiến thức một cách hiệu quả nhất, góp phầnnâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng, tiến tới nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy- học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4. - Tìm hiểu thực trạng dạy- học phân môn Luyện từ và câu lớp 4 ởtrường Tiểu học Vạn Khánh 2. - Đưa ra một số biện pháp dạy- học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Luyện từ và câuở trường Tiểu họcVạn Khánh 2. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp điều tra, khảo sát. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp thực nghiệm. 3 https://giaoantieuhoc.net/

  5. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 5. Giới hạn (phạm vi) nghiên cứu - Nội dung: Phân môn Luyện từ và câulớp 4. - Thời gian: 9/ 2018 – 12/ 2018 - Không gian: Trường Tiểu học Vạn Khánh 2 - Đối tượng khảo sát:Học sinhlớp 4 trường Tiểu học Vạn Khánh 2. 6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu Đề tài đưa ra những biện pháp tích cực nhằm giúp học sinh khối lớp 4ở trường Tiểu học Vạn Khánh 2 học tốt hơn phân môn Luyện từ và câu, nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn này, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt. 4 https://giaoantieuhoc.net/

  6. II. Giải quyết vấn đề : 1. Cơ sở lí luận : 1.1. Vị trí của phân môn Luyện từ và câu Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức năng giao tiếp. Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ vàcâu ở Tiểu học. Việc dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hóa làm phong phúvốn từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm củamình, đồng thời giúp cho học sinhcó khả năng hiểu các câu nói của người khác. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ trí tuệ của các em. 1.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu 1.2.1. Làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đặt câu của các em Nhiệm vụ này bao gồm các công việc sau: - Dạy nghĩa từ: Làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gồm việc thêm vào vốn từ của học sinh những từ mới và những nghĩa mới của từ đã biết, làm cho các em nắm được tínhnhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. - Hệ thống hóa vốn từ: Dạy học sinh biết cách sắp xếp các từ một cách có hệ thống trong trí nhớ của mình để tích lũy từ được nhanh chóng và tạo ra tính thường trực của từ, tạo điều kiện cho các từ đi vào hoạt động lời nói được thuận lợi. - Tích cực hóa vốn từ: Dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kĩ năng sử dụng trong lời nói và lời viết của học sinh, đưa vào trong vốn từ tích cực được học sinh dùng thường xuyên . - Dạy cho học sinh biết cách đặt câu, sử dụng các kiểu câu đúng mẫu, phù hợp với hoàn cảnh, mục đích giao tiếp. 1.2.2. Cung cấp một số kiến thức về câu Trên cơ sở vốn ngôn ngữ có được trước khi đến trường, từ những hiện tượng cụ thể của tiếng mẹ đẻ, phân môn Luyện từ và câu cung cấp cho học sinh một số kiến thức về từ và câu cơ bản, sơ giản, cần thiết và vừa sức với các em. Luyện từ và câu trang bị cho học sinhnhững hiểu biết về cấu trúc của từ, câu, quy luật hành chức của chúng. Ngoài các nhiệm vụ chuyên biệt trên, Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. 1.3. Chương trình dạy học Luyện từ và câu 5 https://giaoantieuhoc.net/

  7. Ở lớp 1 chưa có tiết Luyện từ và câu, ở lớp 2 và lớp 3 mỗi tuần có 1 tiết, ở lớp 4 và 5 có 2 tiết mỗi tuần (chưa kể các tuần ôn tập). Ở lớp 4, các kiến thức lí thuyết được học thành tiết riêng. Đó là các nội dung như từ và cấu tạo từ, các lớp từ (đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, nhiều nghĩa), từ loại, câu, các kiểu câu, thành phần câu, dấu câu, biện pháp liên kết câu. Ngoài ra, chương trình còn cung cấp cho học sinh một số kiến thức ngữ âm –chính tả như tiếng, cấu tạo tiếng. 1.3.1. Về vốn từ Học sinh học thêm khoảng 500 –550 từ ngữ (kể cả thành ngữ, tục ngữ và một số yếu tố gốc Hán thông dụng) theo các chủ đề. 1.3.2. Các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu - Cấu tạo từ: Từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy. - Từ loại: Danh từ, danh từ chung, danh từ riêng, động từ, tính từ. - Các kiểu câu: Câu hỏi và dấu chấm hỏi; Dùng câu hỏi với mục đích khác; Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi; Câu kể; Câu kể “Ai làm gì?”; Câu kể “Ai thế nào?”; Câu kể “Ai là gì?”; Luyện tập câu kể “Ai làm gì?”; Câu khiến; Cách đặt câu khiến; Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị; Câu cảm. - Cấu tạo câu (thành phần câu): Vị ngữ trong câu kể “Ai làm gì?”; Chủ ngữ trong câu kể “Ai làm gì?”; Vị ngữ trong câu kể “Ai thế nào?”; Chủ ngữ trong câu kể “Ai thế nào?”; Vị ngữ trong câu kể “Ai là gì?”; Chủ ngữ trong câu kể “Ai là gì?”; Thêm trạng ngữ cho câu; Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu. - Dấu câu: Dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu chấm hỏi, dấu gạch ngang. - Ngữ âm –chính tả: Cấu tạo tiếng; Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam; Cách viết tên người, tên địa lí nước ngoài; Cách viết tên các cơ quan, tổ chức, giải thưởng, danh hiệu, huân chương. 1.3.4. Các kiểu bài học Luyện từ và câu trong sách giáo khoa Các bài học theo các mạch kiến thức từ, câu có thể chia thành hai kiểu: bài lí thuyết, bài thực hành. - Những bài được xem là bài lí thuyết về từ và câu ở lớp 4 là những bài được đặt tên theo một mạch kiến thức và có phần ghi nhớ được đóng khung. Cấu trúc bài lí thuyết về từ và câu gồm có ba phần: phần Nhận xét, phần Ghi nhớ, phần Luyện tập. - Bài thực hành là những bài có tên gọi “Luyện tập”, chỉ gồm các bài tập nhưng cũng có khi thêm những nội dung kiến thức mới, ví dụ kiến thức về các kiểu loại danh từ ở bài luyện tập về danh từ, kiến thức về các kiểu từ ghép trong bài luyện tập về từ ghép. Ngoài ra, bài ôn tập là nhóm bài có tên gọi “Ôn tập”, là các bài có nội dung luyện từ và câu trong tuần ôn tập giữa học kì, cuối học kì, cuối năm. 1.3.5. Các nhóm, dạng bài tập Luyện từ và câu 6 https://giaoantieuhoc.net/

  8. Dựa vào nội dung dạy học, các bài tập Luyện từ và câu được chia làm hai mảng lớn là mảng bài tập làm giàu vốn từ và mảng bài tập theo các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu. - Bài tập làm giàu vốn từ được chia thành ba nhóm: bài tập dạy nghĩa, bài tập hệ thống hóa vốn từ và bài tập dạy sử dụng từ (tích cực hóa vốn từ). - Bài tập theo các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu được chia ra thành các nhóm: bài tập luyện từ (bài tập về các lớp từ, về biện pháp tu từ, cấu tạo từ, từ loại), bài tập luyện câu (các kiểu câu, cấu tạo câu, dấu câu, biện pháp liên kết câu), ngoài ra còn có nhóm bài tập về cấu tạo tiếng và quy tắc viết hoa. 1.4. Các biện pháp dạy học chủ yếu 1.4.1. Cung cấp kiến thức mới - Giáo viên tổ chức cho học sinh làm các bài tập ở phần nhận xét theo các hình thức: + Trao đổi chung cả lớp. + Trao đổi từng nhóm ( tổ; bàn; hoặc 2,3học sinh). + Tự làm cá nhân, qua đó học sinhrút ra kết luận theo các điểm cần ghi nhớ về kiến thức. 1.4.2. Luyện tập và mở rộng vốn từ - Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số kiến thức có liên quan, sau đótổ chức cho học sinh làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân. Cần lưu ý các vấn đề sau: + Hướng dẫn học sinhtìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập. + Hướng dẫn thực hiện mẫu một phần bài tập. + Hướng dẫn học sinh làm vào vở ( bảng con, bảng phụ…) + Hướng dẫn học sinhnêu kết quả, chữa bài tậpvà tự kiểm tra kết quả luyện tập. 2. Thực trạng của vấn đề 2.1. Đối với giáo viên Phân môn Luyện từ và câu tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần đượcxem xét của quá trình dạy học Luyện từ và câu, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau: - Tồn tại giáo viên không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh không có hứng thú trong học tập. 7 https://giaoantieuhoc.net/

  9. - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốnđược học sinh. - Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh nên các em chưa được làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi luôn tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho tiết học đạt hiệu quả cao nhất. Đó cũng là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế. 2.2. Đối với học sinh Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn Luyện từ và câunên chưa dành thời gian thích đáng để học môn học này. Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô”vừa “khó”. Nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức đã học, từ đó dẫn đến việc nhận diện, phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều. Chưa hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, vốn từ còn nghèo nàn nên các em dùng từ còn sai, khi nói vàviết chưa trọn câu, không diễn đạt một cách trôi chảy những cảm nhận của mình. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đềbài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và bài làm không đạt yêu cầu. Điều đó cho thấy rằng học sinh nắm kiến thức một cách còn máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém, thiếu chắc chắn. Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy...Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh khối 4 (45 học sinh) bằng bài tập có nội dung như sau: Đề bài: Hãy xếp những từđược in đậm trong các câu dưới đây thành hai loại: từ ghép và từ láy. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. Kết quả khảo sát như sau: Xếp loại Lớp Sĩ số Giỏi 0 0 Khá 2 3 TB 12 11 Yếu 8 9 4A 4B 22 23 8 https://giaoantieuhoc.net/

  10. Tổng số Điều đáng nói ở đây là có tới 37,8% số học sinh chưa biết xác định từ ghép, từ láy. Mặt khác, học sinh chưa biết trình bày bài làm khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ.Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía: Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra biện pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên, kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học. 3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề Từ kết quả thực tế dạy và học phân môn Luyện từ và câu trên tôi có đề xuất một số biện pháp sau: 3.1. Chuẩn bị đồ dùng Việc dạy học theo phương pháp mới hiện nay đòi hỏi giáo viên phải năng động, sáng tạo tìm tòi học hỏi để làm tăng hiệu quả giờ dạy đồng thời nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Vì vậy, việc chuẩn bị phương tiện vàđồ dùng dạy học cho mỗi bài học là một khâu không thể thiếu. Mỗi bài yêu cầu mỗi loại phương tiện vàđồ dùng riêng như: băng đĩa, phiếu học tập, bảng phụ, hình ảnh trực quan, vật thật…Đồ dùng dạy học sẽ đóng góp phần lớn cho hiệu quả cũng như thành công của tiết dạy. Ví dụ:Khi dạy bài: Câu kể Ai là gì?(Tuần 24) Bài tập 2 yêu cầu dùng câu kể Ai là gì?viết đoạn văn giới thiệu về gia đình em hoặc tập thể lớp em. Chắc chắn rằng, giờ học sẽ sinh động và lôi cuốn hơn khi học sinh có tấm ảnh chụp cả gia đình, các em sẽ nhìn vào đó để giới thiệu thành viên của gia đình cho cả lớp nghe qua tấm ảnh đó. 3.2. Tạo sự gần gũi, hứng thúban đầu cho các em Kiểm tra bài cũ để giáo viên nắm bắt việc học ở nhà của học sinh, nhưng nếu chỉ đơn thuần là kiểm tra kiến thức của bài học sẽ gây cho học sinh cảm giác nhàm chán hoặc “sợ”. Vì vậy, hình thức kiểm tra là rất quan trọng để gây hứng thú học tập cho học sinh. Có thể kiểm tra bằng nhiều hình thức như: hỏi - đáp giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh, trò chơi ... Ví dụ: Bài: Mở rộng vốn từ: Nhân hậu - Đoàn kết( Tuần 3). Khi kiểm tra bài cũ tôi đã thực hiện bằng hình thức cho học sinh chơi trò chơi: Xếp các từ ghép có tiếng “nhân” vào hai cột. “Nhân”có nghĩa là người “Nhân”có nghĩa là lòng thương người Nhân dân Công nhân 45 0 5 (11,1%) 23(51,1%) 17 (37, 8%) Nhân hậu Nhân đức 9 https://giaoantieuhoc.net/

  11. Nhân tài ... Nhân từ ... Tổ chức thi đua giữa hai đội, đội nào xếp đúng và nhanh nhất sẽ thắng cuộc. Phần giới thiệu bài, việc dẫn dắt vào bài học cũng là một nghệ thuật. Lời vào bài chỉ cần ngắn gọn, vừa đủý, không dài dòng để học sinh cảm thấy hấp dẫn, muốn tìm hiểu, muốn nghe cô giảng. 3.3. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu Việc phân tích ngữ liệu giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập và thực hành tốt nhằm rút ra kiến thức. Giáo viên cần cho học sinh đọc thầm, trình bày yêu cầu của bài tập, giải thích thêm cho học sinh nắm rõ yêu cầu bài tập. Tổ chức cho học sinh làm bài tập bằng nhiều hình thức như: cá nhân, nhóm. Sau đó báo cáo kết quả, cả lớp cùng tham gia trao đổi, nhận xét, học sinh tự rút ra kết luận. Giáo viên chỉ khẳng định kết luận đúng hoặc bổ sung. Trao đổi với học sinh, sửa lỗi cho học sinh hoặc tổ chức cho học sinh góp ý và đánh giá cho nhau trong quá trình làm bài. Giáo viên không nhất thiết phải giải nghĩa từ mà gợi ý cho học sinh liên tưởng, so sánh để tìm nghĩa của từ. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần gũi học sinh, giáo viên cần đưa vào hoàn cảnh cụ thể để học sinh hiểu nghĩa. Cuối cùng giáo viên tổng kết ý kiến của học sinh. Ví dụ:Khi dạy bài: Động từ( Tuần 9). Ởphần nhận xét, sau khi cho học sinh đọc kĩ, thảo luận theo cặp tìm các từ chỉ hoạt động của người, các từ chỉ trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả trước lớp. Giáo viên sẽ chốt lại: Các từ nêu trên là động từ. Vàđặt câu hỏi: “Vậy thế nào làđộng từ?”. Học sinh trả lời –giáo viên khẳng định và ghi bảng. 3.4. Dạy nội dung mở rộng và hệ thống hóa vốn từ Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với chủ điểm của từng đơn vị học. Để học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ... thuộc các chủ điểm, giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên tưởng, so sánh hoặc tra từ điển để tìm hiểu nghĩa. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần gũi với học sinh, cần đưa chúng vào văn cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa. Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh có cơ sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. Căn cứ vào từng đối tượng học sinh, giáo viên cần lựa chọn biện pháp dạy học cho phù hợp. Tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều được tham gia thực hành theo năng lực của mình từng bước vươn lên đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng. Ví dụ: Khi dạy bài: Mở rộng vốn từ: Trung thực - Tự trọng(Tuần 5). Bài tập 4:Có thể dùng thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây để nói về tính trung thực hoặc lòng tự trọng: 10 https://giaoantieuhoc.net/

  12. - Thẳng như ruột ngựa. - Giấy rách phải giữ lấy lề. - Thuốc đắng giã tật. - Cây ngay không sợ chết đứng. - Đói cho sạch rách cho thơm. Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm 4, đọc kĩ nội dung bài tập, xác định yêu cầu, trao đổi tìm hiểu nghĩa của từng thành ngữ, tục ngữ. Rồi học sinh tiến hành phân loại, sau đó báo cáo kết quả trước lớp, lớp nhận xét, bổ sung, thống nhất kết quả. Nếu câu nào các em chưa hiểu nghĩa, giáo viên phải giải thích cho các em rõ. Ngoài ra, cho các em tìm thêm một số câu thành ngữ, tục ngữ có nội dung theo chủ điểm và yêu cầu học thuộc để vận dụng. 3.5. Dạy kiến thức về từ, câu, kĩnăng dùng từ, đặt câu và sử dụng dấu câu Kiến thức tiếng Việt là cả một kho tàng phong phú. Ngay từ khi mới bập bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đếnlớp 4 các em mới bước đầu phân tích cấu tạo của từ, câu, từ loại, cách sử dụng dấu câu. Trong mỗi bài học gồm 3 phần: Nhận xét, ghi nhớ, luyện tập. Theo quan điểm tích hợp, phần nhận xét (cung cấp ngữ liệu) thường rút ra từ những bài tập đọc mà học sinh đã học, các ngữ liệu đều mang tính điển hình cao. Giáo viên cần giúp học sinh khai thác tối đa ngữ liệu được cung cấp. Khi dạy các kiến thức về từ, học sinh thường gặp khó khăn trong việc nhận diện, phân biệt từ phức, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, từ láy. Để thực hiện tốt các bài tập ở dạng này, học sinh phải căn cứ trên nghĩa của từ. Vì vậy, để giúp học sinh nhận ra hệ thống từ, nhận xét về mặt cấu tạo giáo viên cần giúp học sinh thao tác ghép các từ với từng phần trong sơ đồ lần lượt theo thứ tự tầng bậc. Ví dụ: Khi dạy bài: Luyện tập về từ ghép, từ láy ( Tuần 4). - Giáo viên hướng dẫn học sinh phân loại từ “bánh trái” (chỉ chung cho các loại bánh) nên “bánh trái” là từ ghép có nghĩa tổng hợp. - Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy kể tên một số loại bánh mà em biết ? (bánh rán, bánh cuốn, bánh mì…) - Giáo viên nêu “Bánh rán, bánh cuốn, bánh mì...là chỉ riêng cho một loại bánh nên là từ ghép có nghĩa phân loại.” Khi học sinh không phân biệt được từ ghép và từ láy, giáo viên cần giải nghĩa cho học sinh về từ ghép là từ gồm có hai tiếng có nghĩa trở lên tạo thành, các tiếng đó bổ sung nghĩa cho nhau tạo nên nghĩa mới. (Ví dụ : Từ“bờ bãi”cả hai tiếng đều có nghĩa). Còn từ láy là từ gồm hai tiếng trở lên phối hợp theo cách lặp âm hay vần hoặc lặp hoàn toàn cả âm lẫn vần. (Ví dụ: Từ “luôn luôn”, “rì rào”). Vì vậy “bờ bãi”là từ ghép không phải từ láy mặc dù phần âm đầu giống nhau. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy. Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ: 11 https://giaoantieuhoc.net/

  13. + Từ ghép: Mưa rào, nhà cửa, bông hoa... + Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ, vất vả... Khi dạy kiến thức sơ giản về câu, học sinh dễ nhầm lẫn vị ngữ trong câu kể Ai thế nào? là tính từ chứ không phải làđộng từ. Các em thường có xu hướng xác định mọi câu kể có động từ thuộc câu kể Ai làm gì?. Các em quen với động từ là từ chỉ hành động bởi khái niệm“trạng thái”, “tình thái”chưa được hình thành hoặc hình thành chưa rõ ràng. Vì vậy, khi dạy học, giáo viên kết hợp miêu tả bằng động tác hoặc hình vẽ với những ví dụ để học sinh hình dung sự khác nhau giữa hành động và trạng thái. Hành động thể hiện trực tiếp những đặc điểm vận động của chủ thể (Ví dụ: chạy, nhảy, viết, đi, ...). Trạng thái thể hiện mối liên hệ giữa vận động của thực thể trong một hoàn cảnh hoặc không gian, thời gian. (Ví dụ: Mặt trời toả nắng. Bé Hoa ngủ. Hoa nởrộ trong vườn...) Giáo viên nên giới thiệu thêm một số động từ chỉ trạng thái thường dùng thể hiện ý nghĩa về sự cần thiết như: cần, nên, phải, ... Từ chỉ khả năng như: có thể, không thể, ... Từ thể hiện ý chí, ý địnhnhư: toan, định, dám, ... Từ thể hiện sự mong muốnnhư: mong ước, ước mơ, ... Từ thể hiện ý nghĩ hay nhận xétnhư: nghĩ, tưởng, xem, cho, ... ( Ví dụ: Tôi chorằng hoa hồng đẹp nhất). Ngoài ra, việc nhận diện trạng ngữ cũng là một vấn đề khó đối với các em. Về vai trò ngữ pháp, trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong câu, nhưng thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức chủ quan của người nói. Về cấu tạo, trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có quan hệ từ đúng trước. Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Trạng ngữ ở đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở giữa câu và cuối câu học sinh khó nhận diện. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 chỉ nêu trường hợp trạng ngữ đứng ở đầu câu nhưng nếu học sinh đặt những câu có trạng ngữ ở vị trí khác, giáo viên vẫn chấp nhận và chỉ cho học sinh thấy vị trí linh hoạt của trạng ngữ. Khi dạy bài Luyện tập về câuhỏi (Tuần 14). Ở bài này học sinh phải đặt được câu hỏi cho bộ phận xác định trong câu; nhận biết một số từ nghi vấn và đặt câu hỏi với các từ nghi vấn; bước đầu biết được một dạng câu có từ nghi vấn nhưng không dùng để hỏi. Ví dụ:Đặt câu hỏi cho các bộ phận câu được gạch dưới sau đây: a) Hăng hái nhất và khỏe nhất là bác cần trục. b) Trước giờ học chúng em thường rủ nhau ôn bài cũ. c) Bến cảng lúc nào cũng đông vui. Để đặt được câu hỏi cho các bộ phận câu được gạch dưới, học sinh phải hiểu bộ phậngạch dưới biểu đạt nội dung gì, từdùng để hỏi bộ phận đó là những từ nghi vấn nào.Tìm được các từ đó và đặt thêm dấu chấm hỏi cuối câu là chúng ta giải quyết được vấn đề. 12 https://giaoantieuhoc.net/

  14. a) Hăng hái nhất và khỏe nhất là ai? b) Trước giờ học chúng em thường làm gì? c) Bến cảng như thế nào? 3.6. Nắm vững và phát huy những kiến thức và kĩ năng học sinh đã đạt được ở các lớp 1, 2, 3 Mạch kiến thức được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm nên tuỳ theo ở mỗi lớp học mà bài học có những yêu cầu cần đạt khác nhau đối với học sinh. Tuy nhiên nếu các em nắm chắc những kiến thức ở lớp dưới thì lên lớp 4 các em sẽ tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn. Ví dụ: Ở lớp 1: Các em được học về âm - vần - học sinh tìm tiếng có vần hay nói câu chứa tiếng có vần vừa học thì ởlớp 4, các em sẽ được học kỹ hơn về cấu tạo của tiếng: tiếng thường gồm có ba bộ phận âm đầu - vần - thanh(có tiếng không có âm đầu). Hay chỉ là một khái niệm ''Câu hỏi và dấu chấm hỏi'' ở lớp 2 chỉ yêu cầu học sinh Chọn dấu chấm hay dấu chấm hỏi để điền vào ô trống; ở lớp 3, các em phải đặt và trả lời câu hỏi. Nhưng đến lớp 4 thì không những yêu cầu học sinh phải hiểu khái niệm mà còn phải biết giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác (Bạn có thể chờ hết giờ học, chúng mình cùng nói chuyện được không?); không chỉ dừng lại ở hỏi những điều chưa biết mà còn phải biết sử dụng câu hỏi với mục đích khác như: thể hiện thái độ khen, chê, khẳng định, phủ định, yêu cầu, mong muốn… + Câu hỏi để tỏ thái độ khen, chê. Em gái của em hôm nay được điểm 10 môn Toán. Em khen bé : ''Sao em của chị giỏi thế?'' (thể hiện thái độ khen) Em chưa học bài mà lại ngồi xem truyện tranh. Mẹ thấy thế, bảo : ''Con chưa học bài màđã xem truyện tranh à?'' (thể hiện thái độ chê) + Câu hỏi để khẳng định, phủđịnh. Một bạn chỉ thích ăn táo. Em nói với bạn : ''Ăn mận cũng hay chứ ?'' Bạn nghe em nói vậy thì bĩu môi : ''Ăn mận cho hỏng răng à?'' + Câu hỏi đểthể hiện yêu cầu, mong muốn. Đang viết bài thì bút hết mực. Em hỏi bạn ngồi cạnh : ''Cậu có thể cho mình mượn bút được không? '' 3.7. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại, trò chơi,... nhằm tạo hứng thú cho học sinh, tiết học tránh bị nhàm chán vàđơn điệu. Để giúp các em khai thác có hiệu quả nội dung bài học, luyện tập cách giao tiếp, thảo luận cặp, nhóm là hình thức học tập rất có hiệu quả. Trong một nhóm đảm bảo cóđủ các đối tượng học sinh. Khi thảo luận các em được nói, nghe bạn nói, nhận xét. Qua đó luyện tập cho các em sựtự tin, mạnh dạn trong 13 https://giaoantieuhoc.net/

  15. học tập.Việc dạy học theo nhóm là đề cao vai trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo nhóm rèn luyện cho học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình và học sinh biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và biết được công tác tổ chức, điều khiển. Hoạt động nhóm giúp cho học sinh có hứng thú học tập và giúp cho học sinh học sôi động hơn từ đó tăng hiệu quả giờ học. Phương pháp thực hành giúp các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức cho các em. Đồng thời, giáo viên tạo hứng thú cho các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm, tổ... qua các trò chơi học tập. Ví dụ: Khi dạy bài:''Mở rộng vốn từ: Ước mơ''- Tuần 9. Bài tập 2 : Tìm thêm những từ cùng nghĩa với ước mơ: a) Bắt đầu bằng tiếng ''ước'' b) Bắt đầu bằng tiếng ''mơ'' Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi. (Sau đócó thể tổ chức trò chơi "Sạc điện'') Bài tập 3 : Ghép thêm vào sau từ ''ước mơ'' những từ ngữ thể hiện sựđánh giá : - Đánh giá cao - Đánh giá không cao - Đánh giá thấp (Từ ngữđể chọn : đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn, nho nhỏ, kì quặc, dại dột, chính đáng). Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4.(Sau đócó thể tổ chức trò chơi "Tiếp sức'' theo tổ hoặc dãy) Bài tập 4 : Nêu ví dụ minh họa về một loại ước mơ nói trên. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc cá nhân. Vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ góp phần giúp cho lớp học sôi nổi, gây hứng thú học tập cho học sinh giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủđộng và tích cực. 3.8. Giáo viên phải biết kết hợp linh hoạt, nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học - Giao việc cho học sinh : + Cho học sinh trình bày bài tập, yêu cầu, câu hỏi. + Cho học sinh thực hiện một phần của câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa, nếu nhiệm vụ đặt ra là khó hoặc mới, sau khi học sinh làm thử cần tổ chức chữa bài để các em nắm được cách thực hiện. + Tóm tắt nhiệm vụ, nêu những điểm cần chú ý khi làm bài. 14 https://giaoantieuhoc.net/

  16. - Kiểm tra học sinh: Trong quá trình học sinh làm bài tập, giáo viên cần tới từng bàn để kiểm tra công việc của các em. + Xem học sinh có làm việc không. + Xem học sinh có hiểu việc phải làm không. + Trả lời thắc mắc của học sinh. - Tổ chức báo cáo làm việc. - Tổ chức đánh giá. 3.9. Phát huy tính tích cực của học sinh Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh vàphân ra nhiều mức độ (HST, HT, HSC) để có phương pháp dạy học thích hợp. Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. Muốn phát huy được tính tích cực của học sinh người giáo viên phải có hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm ra được kết quả,phù hợp với mọi đối tượng học sinh.Trước hết, giáo viên phải nắm kĩ năng đặt câu hỏi: - Đặt những câu hỏi mà học sinh có thể trả lời được. - Cho học sinh có thời gian suy nghĩtrả lời. - Kết hợp sử dụng ngôn ngữ cử chỉ (ánh mắt, nụ cười…) để khuyến khích học sinh trả lời. - Khen ngợi hay ghi nhận câu trả lời đúng của học sinh. - Tránh cho học sinh ngại ngùng với câu trả lời của mình. - Nếu học sinh không cócâu trả lời, có thể đặt câu hỏi khác đơn giản nhằm gợi mở cách trả lời. - Câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu. - Tránh đặt các câu hỏi sử dụng các câu ghi nhớ. - Phân phối câu hỏi cho tất cả các đối tượng học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài: Câu kể Ai làm gì?(Tuần 17). Phần nhận xét :Đọc đoạn văn sau: ''Trên nương mỗi người một việc. Người lớn thì đánh trâu ra cày. Các cụ già thì nhặt cỏ đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm. Các bà mẹ lom khom tra ngô. Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả rừng''. Để phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh, đảm bảo tất cảcác em đều được nêu ý kiến, được làm việc, hướng dẫn các em tự phát hiện ra kiến thức bài học bằng hệ thống câu hỏi sau: - Trong mỗi câu trên, các từ ngữchỉ hoạt động là những từ ngữ nào? (HSC) 15 https://giaoantieuhoc.net/

  17. - Trong mỗi câu trên, các từ ngữchỉ người hoặc vật hoạt động là những từ ngữ nào? (HSC) Giáo viên gạch chân những từ mà các em đã tìm được. - Em hãy đặt câu hỏi cho từ ngữ chỉ hoạt động? (HST thực hiện mẫu). - Em hãy đặt câu hỏi cho từ ngữ chỉ người hoặc vật hoạt động? (HST thực hiện mẫu). Giáo viên nêu: Đó là những câu kểAi làm gì? - Vậy câu kểAi làm gì? thường gồm mấy bộ phận? Mỗi bộ phận trả lời cho câu hỏi nào? (HST trả lời – HSC nhắc lại) –Kiến thức bài học. Để rèn luyện các kĩ năng đó không có con đường nào khác ngoài thực hành thường xuyên trên lớp thông qua các tiết dạy. Áp dụng các kĩ năng vào dạy học chính là giáo viên đã tự mình rèn luyện góp phần nâng cao hiệu quả tiết dạy. 3.10. Dạy kiến thức theo hướng tích hợp các phân môn Tiếng Việt và các môn học khác Kiến thức Tiếng Việt vốn bắt nguồn từ đời sống thực tế. Nó sẽ trở nên hữu ích nếu biết gắn vào cuộc sống của trẻ và lớp học sẽ trở nên sinh động hơn, học sinh học tập hiệu quả hơn nếu giáo viên biết tích hợp nhiều hoạt động cho một đơn vị kiến thức. Hệ thống các chủ điểm là trục để phối hợp các môn, phân môn. Việc cung cấp kiến thức gắn bó hơn với việc rèn luyện kỹ năng thông qua các biện pháp dạy học. Học sinh làm việc nhiều trên lớp cũng như ngoài lớp. Từ đó, học sinh chủ động hơn trong hoạt động học, giờ học trở nên thiết thực, nhẹ nhàng vàhấp dẫn. Với các bộ môn của môn Tiếng Việt nhưTập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện giúp học sinh rất nhiều trong việc mở rộng vốn từ, vận dụng cách dùng từ để đặt các kiểu câu khác nhau, sắp xếp từ ý cho đúng văn cảnh cụ thể. 3.11. Dạy học sinh tích lũy kiến thức Học tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt cũng như con người bước vào cuộc đời đều phải mang theo mình những hành trang cần thiết, đó là những kinh nghiệm, những bài học về cuộc sống, những hiểu biết về thế giới xung quanh. Muốn học tốt môn Tiếng Việt, giáo viên cần cho học sinh hiểu tầm quan trọng của việc tích luỹ kiến thức. Nguồn kiến thức về cuộc sống xung quanh, tình cảm gia đình, cộng đồng và những cảnh vật trong cuộc sống đó là: bờ tre, giếng nước, đường làng, ... Nguồn kiến thức vô cùng quan trọng để các em tích lũy đó là kiến thức sách vở trong chương trình tiểu học, sách báo, tạp chí, ... Muốn có được kiến thức ấy, giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát thực tế, ghi chép váo kí ức, lập cuốn sổ tay “Từ điển tiếng Việt” ghi thành từng mục từ ngữ hay theo chủ đề từ cùng nghĩa, trái nghĩa, tục ngữ, ca dao, châm ngôn, những gương người tốt, việc tốt. Sắp xếp thành chuyên mục như vậy sẽ dễ tìm, dễlấy để vận dụng đặt câu, dùng từ ngữ khi giao tiếp ... Ví dụ:Khi dạy bài: Mở rộng vốn từ: Dũng cảm( Tuần 26 ) 16 https://giaoantieuhoc.net/

  18. Bài tập 1:Tìm những từ ngữ cùng nghĩa và trái nghĩa với từ “dũng cảm”. Các em có thể dùng “Từ điển tiếng Việt” của mình để thi đua tìm được nhiều từ cùng với các bạn hoặc các em sẽ ghi chép thêm những từ ngữ của các bạn tìm được mà trong sổ mình chưa có. - Từ cùng nghĩa : quả cảm, gan dạ, gan góc, anh dũng, … - Từ trái nghĩa: nhát gan, nhút nhát, hèn nhát, bạc nhược, ... 3.12. Giúp học sinh nắm vững được vị trí, nhiệm vụ, tác dụng của việc học phân môn Luyện từ và câu Ngôn ngữ là phương tiện kỳ diệu của con người, nhờ nó mà xã hội tồn tại và phát triển được. Vì vậy, dạy Tiếng Việt giáo viên dần dần từng bước dẫn dắt học sinh đi vào chiều sâu của ngôn ngữ Tiếng Việt, hiểu được những điều bí ẩn đằng sau những hiện tượng và giải thích được cơ chế vận hành của ngôn ngữ. Việc dạy Luyện từ và câu trong trường Tiểu học là vấn đề không thể thiếu. Bởi đây là nền tảng giúp học sinh hiểu được bản chất của tiếng mẹ đẻ và góp phần bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng nơi, viết thành câu và ý thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa. Việc học Tiếng Việt sẽ giúp học sinh nắm vững tiếng mẹ đẻ, tạo vốn từ cho bản thân. Qua đó giúp các em nắm vững phạm vi sử dụng chúng, nắm tính nhiều nghĩa và sự chuyển đổi nghĩa của các từ đồng nghĩa, gần nghĩa. Từđó hình thành căn bản về từ và câu tiếng Việt để các em ứng dụng trong các phân môn khác như: Tập làm văn; Tập đọc … 3.13. Phối hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tích luỹ vốn hiểu biết, vốn từ ngữ cho học sinh. Dạy Luyện từ và câu phối hợp các hoạt động ngoài giờ nhằm bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt, văn hoá trong giao tiếp. Để thực hiện nhiệm vụđó, không chỉ bó gọn trong việc tổ chức các hoạt động dạy và học trên lớp mà còn cả trong việc học tập các môn học khác với các hoạt động trong và ngoài nhà trường. Ngoài việc dạy học ở trên lớp nên tổ chức cho học sinh những giờ học ngoại khóa thật bổ ích như tổ chức các trò chơi đố vui để học, các hội thi tìm từ nhanh, đặt câu đúng…để các em tăng thêmvốn hiểu biết tạo ra sự thi đua, hứng khởi trong học tập Tiếng Việt và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.Trò chơi học tập là một loại hoạt động không thểthiếu được trong mọi lứa tuổi giúp các em phát triển trí tuệ và tiếp thu bài học một cách hiệu quả. Giáo viên cũng nên tổ chức cho các em đi tham quan thực tế học tập để các em mở rộng vốn kiến thức về quê hương, đất nước giúpcác em hiểu hơn về cuộc sống, từ đó làm giàu thêm vốn từ. Hay từ trong cuộc sống hằng ngày, các em thường giao tiếpvới thầy cô, bạn bè, cha, mẹ…giáo viên phải nắm bắt được điều đó để điều chỉnh cho học sinh trong hoạt động giao tiếp. 17 https://giaoantieuhoc.net/

  19. Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng rất lớn đến việc dạy phân môn Luyện từ và câu giúp các em có thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu, biết quý biết giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. 3.14. Thủ thuật lên lớp của giáo viên và công tác chủ nhiệm Một yếu tố quan trọng góp phần quyết định thành công hay không của một tiết dạy đó là thủ thuật lên lớp của giáo viên. Để tiến trình giờ dạy hợp lí, đảm bảo thời gian và sử dụng các phương pháp, hình thức dạy - học hài hoà, giáo viên cần phải nghiên cứu phân bố thời gian cho hợp lí. Lời giảng, giọng nói của giáo viên ấm áp, nhẹ nhàng, truyền cảm sẽ làm cho tiết học hiệu quả hơn. Vì vậy lời nói của giáo viên cần tự nhiên, chuẩn và đủ ý, dẫn dắt, chuyển ý ngắn gọn, logic, hợp lí. Cần chấm chữa bài, sửa lỗi, đánh giá thường xuyên và cho học sinh tham gia vào quá trình đánh giá. Giáo viên chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng,tổ chức lãnh đạo, điều hành, kiểm tra đánh giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứngxử trong phạm vi lớp mình phụ trách qua đó hình thành, phát triển hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Với vai trò, vị trí như vậy giáo viên chủ nhiệm còn là cầu nối liền giữa nhà trường và xã hội. 4. Hiệu quảcủa đề tài Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên chất lượng môn Luyện từ và câu so với đầu năm có nhiều tiến bộ rõ nét. Trước đây các em chưa hiểu nghĩa từ, vận dụng từ còn sai, đặt câu còn khô khan, rời rạc, chưa đủ ý hoặc dài dòng. Nay các em đã hiểu nghĩa của từ theo từng chủ điểm, biết giải nghĩa từ, vận dụng từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Các em đã biết dùng từ hay, giàu hình ảnh, biết phát hiện câu chưa đúng. Đặc biệt các em đã biết vận dụng để làm các bài tập làm văn hay. Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi biện pháp tổ chức dạy phân môn Luyện từ và câu, trải qua gầnmột học kỳ cùng thời gian áp dụng biện pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sáthọc sinh khối 4 (45 học sinh) bằng bài tập có nội dung như sau: Đề bài:Đọc đoạn văn sau: Bấy giờ tôi còn là một chú bélên mười. Mỗi lần đi cắt cỏ, bao giờ tôi cũng tìm bứt một nắm cây mía đất, khoan khoái nằm xuống cạnh sọt cỏđãđầy và nhấm nháp từng cây một. Buổi chiều ở làng ven sông yên tĩnh một cách lạ lùng. a) Tìm trong đoạn văn trên: + 3 từ đơn, 3 từ ghép, 3 từ láy. + 3 danh từ, 3 động từ, 3 tính từ. + Câu kểAi làm gì?; Ai thế nào?;Ai là gì?. b) Đặtmột câu với một từem vừa tìm được. 18 https://giaoantieuhoc.net/

  20. Kết quả đạt được như sau: Xếp loại Lớp Sĩ số Giỏi 7 8 Khá 13 14 TB 2 1 Yếu 0 0 0 (0%) 4A 4B 22 23 45 Tổng số 15(33,3%) 27 (60%) 3 (6,7%) đầu nămtăng lên rõ rệt. Kết quả này đã phần nào chứng tỏ đượcđề tài này đã có hiệu quả đi đúng theo sự chỉ đạo của nhà trường và của ngành đề ra. Qua bảng thống kê cho thấy kết quả dạy học môn Luyện từ vàcâu so với 19 https://giaoantieuhoc.net/

  21. III. Kết luận 1. Đúc kết lại những nội dung chính đã trình bày Phân môn Luyện từ và câu cung cấp từ ngữ cho học sinh gắn với hoạt động giao tiếp trong các chủ điểm học tập của chương trình. Hơn nữa lí thuyết lồng vào bài tập, từ thực hành học sinh tiếp nhận lí thuyết. Vì thế thời gian thực hành của học sinh tăng lên rất nhiều. Các em có nhiều cơ hội để giao tiếp, để vận dụng những gì được học vào thực tế cuộc sống.Thế nhưng trên thực tế đã có không ít học sinh mắc những lỗi Luyện từ và câu phổ biến như: lỗi về từ vựng, lỗi về từ loại, lỗi về thành phần câu, lỗi về kiểu câu, dấu câu,…nguyên nhân chủ yếu do khả năng tư duy của học sinh chưa cao, điều kiện học tập cũng chưa đầy đủ, chưa có ý thức cũng như phương pháp học tập tích cực, thiếu sự quan tâm đúng mức của gia đình. Ngoài ra, những hạn chế ấy không chỉ do học sinh không chịu tìm tòi mà một phần do giáo viên chưa thật sự quan tâm, chỉ bảo chu đáo giúp các em nhanh chóng, kịp thời sửa chữa lỗi mắc phải. Để nâng cao chất lượng học phân môn Luyện từ và câu, hạn chế những lỗi học sinh thường mắc phải, theo tôi cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và trò, giáo viên là người hướng dẫn, chỉ đạo, học sinh đóng vai trò chủ đạo tìm ra vấn đề và giải quyết chúng một cách chính xác. Giáo viên luôn theo dõi và phát hiện những biến đổi của học sinh trong quá trình nhận thức, luôn thay đổi hình thức dạy học, đa dạng các loại bài tập phù hợp từng đối tượng học sinh, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong quá trình nghiên cứu, áp dụng sáng kiến vào giảng dạy bước đầu đã đạt được những kết quả tuy còn khiêm tốn nhưng tôi thiết nghĩ nếu tiếp tục áp dụng sáng kiến này vào việc rèn luyện cho các em ở các lớp, ởcác năm học sau thì tôi tin rằng chất lượng giảng dạy Luyện từ vàcâu sẽ được nâng lên cao hơn nữa. Qua quá trình nghiên cứu, thực nghiệm tôi rút ra một số kinh nghiệm trong việc dạy Luyện từ và câu cho bản thânnhư sau: Mỗi người giáo viênđến với công việc dạy học có ý nghĩa và cũng lắm vất vả nhưngbằng cái tâm, lòng nhiệt huyết và tình yêu thương đối với học trò, tôi tin rằng mọi khó khăn ban đầu đều có thể từng bước, từng bước được tháo gỡ. - Dạy kiến thức Luyện từ và câu cho học sinh là một mắt xích quan trọng trong chuỗi kiến thức tiếng Việt. Vì thế, đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, có vốn kiến thức về tiếng Việt phong phú, nắm chắc các biện pháp tu từ, ngữ nghĩa để phân tích nhằm mở rộng vốn hiểu biết cho các em. Giáo viên cần nắm vững cấu trúc chương trình, đặc điểm tâm lí trẻ để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, đạt hiệu quả cao. - Lựa chọn phương pháp dạy học có hiệu quả. Giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức. 20 https://giaoantieuhoc.net/

  22. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra, … từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để kịp thời sửa chữa, uốn nắn. - Người giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi một cách có hiệu quả. - Dạy kiến thức tiếng Việt không nên chỉ dừng lại ở môn Luyện từ và câu hay các phân môn của tiếng Việt mà cần dạy ở tất cả các môn học khác. Trên đây là những kinh nghiệm tôi tích lũy được trong quá trình thực nghiệmvới mong muốn ngoài nhiệm vụ chung còn phải cung cấp mở rộng thêm vốn từ, củng cố các kiểu câu theo chương trình màmục tiêu dạy học Tiếng Việt đặt ra. 2. Đề ra biện pháp triển khai, áp dụng vào thực tiễn - Trước hết giáo viên cần nắm vững cấu trúc chương trình, đặc điểm tâm lí trẻ để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp thì áp dụng đề tài mớiđạt hiệu quả cao. - Trước khi lên lớp, giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài học, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa. Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu, phù hợp từng đối tượng học sinh. - Sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học, sách giáo khoa, tranh ảnh, các tài liệu liên quan. - Phân nhóm học tập để học sinh giúp đỡ nhau, học hỏi cái hay, cái đúng, giúp học sinh tự phát hiện lỗi của bạn và của mình để sửa chữa.Chú ý đến từng đối tượng học sinh. - Chấm chữa bài, sửa lỗi cho học sinh, nhận xét phù hợp, kịp thời, động viên, khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình đánh giá. - Tổ chức các trò chơi trong tiết học phù hợp, thường xuyên thay đổi hình thức để gây hứng thú cho học sinh. - Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh, thường xuyên trao đổi kết quả học tập cũng như bàn biện pháp phối hợp để nâng caochất lượng học tập cho các em. 3. Nêu kiến nghị, đề xuất (nếu có) Để chất lượng dạy –học Luyện từ và câu đạt kết quả cao hơn, tôi rất mong các cấp lãnh đạo Phòng, Trường tổ chức các chuyên đề, phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy, tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn tạo điều kiện cho tất cả các giáo viên được học tập kinh nghiệm lẫn nhau, nâng cao hiệu quả giảng dạy với phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. 4. Hướng phát triển của đề tài Đề tài bước đầu đã có những mặt tích cực đã và đang được áp dụng vào giảng dạy trong khối 4. Thiết nghĩ, sau này nếu có điều kiện sẽ tiếp tục nghiên 21 https://giaoantieuhoc.net/

  23. cứu sâu hơn về chương trình Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu ở các khối nhằm hoàn thiện hơn về biện pháp dạy học. Vạn Khánh, ngày 2 tháng 12 năm 2018 Người thực hiện Nguyễn Duy Huy 22 https://giaoantieuhoc.net/

  24. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa, sách giáo viên tiếng Việt lớp 4 tập 1,2 –Nhà xuất bản giáo dục. 2. Bài tập trắc nghiệm và tự luận tiếng Việt 4 tập 1,2 –Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 3. Tiếng Việt thực hành - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt (Giáo trình đào tạo giáo viên hệ cao đẳng tiểu học). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III - Nhà Xuất bản Giáo dục 6. Giáo dục Tiểu học 2/1999 7. Giáo trình Tiếng Việt tập I, tập II NXB –ĐHSP 2008 TS.Nguyễn Thị Ly Kha - Đại học sư phạm Huế. 8. Quyết định chuẩn kiến thức kĩ năng NXB-GD 2009. 9. Tìm kiếm thông tin trên internet, gvth.net, thư viện giáo dục, tài liệu Việt.... 23 https://giaoantieuhoc.net/

  25. PHỤ LỤC Bảng khảo sát chất lượng học sinh môn Luyện từ và câu trước khi nghiên cứu đề tài: Xếp loại Lớp Sĩ số Giỏi 0 0 0 Khá 2 3 TB 12 11 Yếu 8 9 4A 4B 22 23 45 Tổng số 5 (11,1%) 23(51,1%) 17 (37, 8%) Bảng khảo sát chất lượng học sinh môn Luyện từ và câu sau khi áp dụng đề tài: Xếp loại Lớp Sĩ số Giỏi 7 8 Khá 13 14 TB 2 1 Yếu 0 0 0 (0%) 4A 4B 22 23 45 Tổng số 15(33,3%) 27 (60%) 3 (6,7%) 24 https://giaoantieuhoc.net/

More Related