0 likes | 8 Views
Trong chu01b0u01a1ng tru00ecnh tou00e1n tiu1ec3u hu1ecdc u0111u01b0u1ee3c chia thu00e0nh hai giai u0111ou1ea1n, u1edf cu00e1c lu1edbp 1,2,3 hu1ecdc sinh chu1ee7 yu1ebfu chu1ec9 nhu1eadn biu1ebft cu00e1c khu00e1i niu1ec7m ban u0111u1ea7u, u0111u01a1n giu1ea3n qua cu00e1c vu00ed du1ee5 cu1ee5 thu1ec3 vu1edbi su1ef1 hu1ed7 tru1ee3 cu1ee7a cu00e1c vu1eadt thu1eadt hou1eb7c mu00f4 hu00ecnh, tranh u1ea3nh,u2026 do u0111u00f3 chu1ee7 yu1ebfu chu1ec9 nhu1eadn biu1ebft u201ccu00e1i tou00e0n thu1ec3u201d, u201ccu00e1i riu00eang lu1ebbu201d, chu01b0a lu00e0m ru00f5 cu00e1c mu1ed1i quan hu1ec7, cu00e1c tu00ednh chu1ea5t cu1ee7a su1ef1 vu1eadt, hiu1ec7n tu01b0u1ee3ng. Khi lu00ean lu1edbp 4 cu00e1c em vu1eabn hu1ecdc tu1eadp cu00e1c kiu1ebfn thu1ee9c vu00e0 ku1ef9 nu0103ng cu01a1 bu1ea3n cu1ee7a mu00f4n tou00e1n nhu01b0ng u1edf mu1ee9c su00e2u hu01a1n, khu00e1i quu00e1t hu01a1n, tru1eebu tu01b0u1ee3ng hu01a1n.
E N D
MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG 1 2 2 2 3 3 4 4 4 5 6 6 6 6 6 6 7 7 8 9 10 11 11 12 12 12 12 12 13 13 14 14 14 15 Mục lục I.Sơ lược lý lịch tác giả II.Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị 1.Thuận lợi 2.Khó khăn III.Mục đích yêu cầu của sáng kiến 1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến a.Thuận lợi b.Khó khăn 2.Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến 3.Nội dung sáng kiến a.Tiến trình thực hiện b.Thời gian thực hiện c.Biện pháp thực hiện *Mục tiêu của biện pháp *Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp *Cách thức thực hiện 1.Dạng 1: Tìm số trung bình cộng 2.Dạng 2: Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của haisố đó 3.Dạng 3: Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó 4.Dạng 4: Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó -Những đơn vị, cá nhân tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu -Mứcđộ khả thi a.Điều kiện đểthực hiện b.Mối quan hệ giữa các biện pháp IV.Hiệu quả đạt được 1.Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến a.Trước khi áp dụng b.Sau khi áp dụng 2.Lợi ích thu được V.Mức độ ảnh hưởng a.Khả năng áp dụng biện pháp b.Những điều kiệncần thiết đểáp dụng sáng kiến VI.Kết luận Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 1 https://giaoanpowerpoint.net/
PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂUCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH B LONG AN Độc lập - Tự do –Hạnh phúc --------------------------------------------- -------------------------------------- Long An, ngày 28 tháng 10 năm 2018 BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN: RÈN KỸ NĂNG GIẢI CÁC DẠNG TOÁN ĐIỂN HÌNH LỚP 4 ----------------------------- I-Sơ lược lý lịch tác giả: - Họ và tên: Lê Minh TrungNam, nữ: Nam - Ngày tháng năm sinh: 28-06-1970 - Nơi thường trú: Ấp Long Hiệp, xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An - Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp - Trình độ chuyên môn: Cử nhân Tiểu học - Lĩnh vực công tác: Giáo viên Tiểu học II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: Trường Tiểu học B Long An nằm ven theo bờ sông Kênh Xáng. Trường được xây dựng mới trên mặt bằng rộng cặp theo lộ giao thông Long An - Châu Phong, tọa lạc trên tuyến dân cư thuộc Ấp Long Hòa, xã Long An, từ đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập. 1. Thuận lợi: a). Giáo viên : - Đội ngũ giáo viên an tâm công tác, có nhiều cố gắng thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học. Giáo viên đứng lớp đều đạt trên chuẩn. - Chấp hành kĩ luật tốt, đoàn kết giúp nhau trong công tác. - Được sự đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh cùng giáo viên chăm lo giáo dục. b). Học sinh : - Đa số học sinh nằm trong địa bàn nên đảm bảo về giờ giấc. - Phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học của con mình. 2 Khó khăn: a). Giáo viên : - Trình độ chuyên môn không đồng đều dẫn đến hiệu quả giảng dạy chưa cao. - Một vài giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác dẫn đến hiệu quả giáo dục chưa cao. Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 2 https://giaoanpowerpoint.net/
b). Học sinh : - Một số học sinh gia đình chưa quan tâm nên việc kết hợp giáo dục chưa đạt hiệu quả cao. - Còn một số học sinh gia đình nghèo thường nghỉ học theo cha mẹ làm thuê ảnh hưởng đến chất lượng học tập. - Một số em còn chưa hoàn thành môn học, việc phụ đạo học sinh cònkhó khăn do trí nhớ của các em hay quên. - Nhiều học sinh viết chữ không đúng mẫu, khó rèn lại chữ viết. - Tên sáng kiến:Rèn kỹ năng giải các dạng toán điển hình lớp 4. - Lĩnh vực: Chuyên môn III- Mục đích yêu cầu của sáng kiến: Trong chương trìnhtoán tiểu học được chia thành hai giai đoạn, ở các lớp 1,2,3 học sinh chủ yếu chỉ nhận biết các khái niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thật hoặc mô hình, tranh ảnh,… do đó chủ yếu chỉ nhận biết “cái toàn thể”, “cái riêng lẻ”, chưa làm rõ các mối quan hệ, các tính chất của sự vật, hiện tượng. Khi lên lớp 4các em vẫn học tập các kiến thức và kỹ năng cơ bản của môn toán nhưng ở mức sâu hơn, khái quát hơn, trừu tượng hơn. Nhiều nội dung toán có thể coi là trừu tượng, khái quát đối với học sinh ở giai đoạn các lớp 1,2,3 thì lên lớp 4, 5 lại trở lên cụ thể, trực quan và làm chỗ dựa (cơ sở ) để học các nội dung mới. Do đó, tính trừu tượng, khái quát của nội dung môn Toán ở các lớp 4, lớp 5 được nâng lên một bậc so với các lớp 1, 2, 3. Đặc biệt lớp 4 được coi là mở đầu cho giai đoạn học tập sâu,nhiều khái niệm toán mới được xuất hiện, làm cơ sở, tiền đề cho học sinh học tốt hơn môn toán ở lớp trên, trong đó có các dạng toán được coi là điển hình như: Tìm số trung bình cộng; Tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số đó; Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.... Ta nói toán điển hình vì mỗi loại toán trên có tên gọi riêng và phương pháp tổng quát riêng cho từng loại. Vì đây là dạng toán mới, phức tạp đối với các em nên vừa học xong thì làm được nhưng nhưng sau đó lại mau quên, không vận dụng được công thức nên dẫn đến kết quả sai, làm bừa bởi các em quen như ở các lớp trước chưa có khái niệm vận dụng công thức, qui tắc để giải toán do đó học sinhcần được rèn luyện giải toán thật nhiều để trở thành kỹ năng, kỹ xảo, khi đọc đề toán lên học sinh phát hiện ngay được bài toán đó thuộc dạng toán nào, cách giải ra sao. Việc rèn kỹ năng giải toán điển hình ở lớp 4, nhằm giúp học sinh nắm chắc các dạng toán, công thức tính và phương pháp giải cho từng loại bài cụ thể, biết cách suy luận đưa những dạng bài tập khó về dạng cơ bản đã học để giải bài toán, nhằm hình thành những kiến thức về toán học, rèn luyện kỹ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú. Nhờ việc dạy học toán điển hình mà học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận. 1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến. Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 3 https://giaoanpowerpoint.net/
a.Thuận lợi: - Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của nhà trường, đặc biệt là bộ phận chuyên môn luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng dạy và học nhằm đáp ứng nguyện vọng chính đáng của học sinh cũng như các bậc phụ huynh trong tình hình mới hiện nay. - Học sinh có đầy đủ sách vở học tập kể cả sách bài tập và sách tham khảo, các em lại được học 2 buổi/ ngày nên giáo viên có thời gian để ôn luyện bổ sung thêm những thiếu sót, hạn chế của các em ở những tiết tăng thêm vào buổi chiều, các em có điều kiện được làm thêm các bài tập, rèn luyện thêm kỹ năng giải toán. - Một số em ngoan, chăm học được sự quan tâm và kèm cặp của gia đình, về nhà các em học bài và làm bài đầy đủ nên đến lớp tiếp thu bài một cách chủ động, sôi nổi. b. Khó khăn: * Đối với giáo viên: Trong thực tế hiện naymột số giáo viên còn hạn chếtrong hướng dẫn học sinh giải toán điển hình. Qua khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng giải toánvà tóm tắt đề toán cho học sinh Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khókhăn; giáo viên trẻ tuổi năng động, sáng tạo nhưng lại thiếu kinh nghiệm trong truyền thụ kiến thức cho học sinh. *Đối với học sinh: Trong nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh chưa ngoan, thiếu tự tin trong học tập, thiếu luyện tập những bài toán điển hình… Các em học sinh vừa từ lớp một, hai, ba lên làm quen với môi trường lớp 4, các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em không dám hỏithầy cô mà xem bài bạn chép bài giải vào vở,... *Đối với phụ huynh học sinh: Về phía các bậc phụ huynh không biết giải và hướng dẫn con em họ trong việc dạy toán; họ thường giao khoán cho giáo viên.Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ thì quá nuông chiều, chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không cókĩ năng tựhọc. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động giáo dục cần thiết. Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn nêu trên, bản thân đã cố gắng tìm nhiều phương pháp Rèn kỹ năng giải toán điển hình cho học sinh lớp 4 thông qua các tiết dạy toán chính khóa và bồi dưỡngnhằm đem lại hiệuquả cao trong việc giải toán điển hình. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 4 https://giaoanpowerpoint.net/
Trong thời gian vân dụng sáng kiếnvào giảng dạy và qua quan sát quá trình giải toán của học sinh lớp tôi, tôi nhận thấy học sinh đã giải toán có phần nhanh hơn, hiểu bài hơn, nắm chắc các bước để vận dụng vào giải toán nhanh hơn, đặt lời giải cho bài toán phù hợp với yêu cầu của đềbài. Đối với học sinh hoàn thành tốtđã tìm được nhiều cách giải cho một bài toán Tuy nhiên khi áp dụng đối với học sinh chưa hoàn thành còn gặp khó khăn. Do khả năng tư duy vào giải toán của học sinh này còn hạn chế nên khi giải toán học sinh ít có khả năng ý thức được các thao tác kế tiếp nhau trong quá trình suy luận. Học sinh chưa phân biệt được dữ kiện và điều kiện, chưa xác định được nội dung yêu cầu của bài toán. Khi vận dụng sáng kiếntôi nhận thấy học sinh hoàn thành tốt và học sinh hoàn thành đều biết giải các bài toán hợp liên quan đến các dạng toán điển hình một cách thành thạo và chính xác. Biết trình bày bài giải đầy đủ gồm (mỗi phép tính đều có lời giải) theo đúng yêu cầu của bài toán. Đã giảm bớt được học sinh chưa hoàn thành ở môn toán. Đối với học sinh chưa hoàn thànhthì vẫn còn những hạn chế. Do khả năng đọc hiểu của các em còn chậm. Sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng chán nên các em không nắm vững bước khi giải một bài toán có lời văn nói chung và toán điển hình nói riêng vì vậy khi hướng dẫn học sinh giải bài toán thường mất nhiều thời gian hơn so với học sinh hoàn thành Toán điển hình mỗi loại có tên gọi riêng và phương pháp tổng quát riêng cho từng loại bài do đó nếu học sinh hiểu và nắm chắc phương pháp giải rồi thì lại rất dễ, khi nhận diện được dạng toán các em giải rất nhanh, giáo viên không mất nhiều thời gian để giảng giải nhiều. Việc đưa các bài toán phức tạp về dạng cơ bản để giải lại gây được sự hứng thú đối với các em nên nhiều em yêu thích giải những bài toán dạng điển hình. Còn đối với học sinh chưa hoàn thành thì đây là dạng toán khó, trừu tượng do các em không nhận diện được dạng toán hoặc lười học, trí nhớ kém nên quên công thức giải dẫn đến giải sai. Trường Tiểu học B Long An, thuộc vùng nông thôn, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, học sinh chưa quan tâm lắm đến việc học, khảnăng tiếp thutiếng Việt của một số emcòn hạn chế, dẫn đến khi giải các dạng toán điển hình học sinh hiểu và suy luận rất chậm, kỹ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kỹ bài toán trước khi giải toán, việc nhận dạng các bài toán còn chậm, có em còn lúng túng khi tóm tắt đề toán ở dạng tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số số đó, các em chưa chọn được đại lượng phù hợp tỉ số dẫn đến việc kết quả đúng nhưng lời giải và phép tính không khớp. Mặt khác, do các em còn quen cách học ở các lớp nhỏ ít học bài cũ nên hay quên công thức, khả năng suy luận chưa cao nên việc giải toán còn chậm. Từ những vấn đề nêu trên nên tôi chọn viết sáng kiến : “Rèn kỹ năng giải toán điển hình cho học sinh lớp 4” 3-Nội dung sáng kiến. *Thuận lợi: Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 5 https://giaoanpowerpoint.net/
Học sinh ý thức trong học tập; có hành vi, thói quen luyện tập lại các bài toánđã học. Các em có kĩ năng xem bài trước ở nhà để vào lớp trao đổi với thầy những bài toán em chưa hiểu (theo mô hình VNEN) *Khó khăn: Hiện tượng học sinhcòn lơ mơ thiếu tập trung phân tích để bài toán, thiếu tự tin trong giao tiếp,thiếu sáng kiến và dễ nản chí khi thấy bài toán có lời văn. a. Tiến trình thực hiện: Tìm hiểu về giải các bài toán điển hình trong chương trình lớp 4; Khảo sát chất lượng hàng tháng và bốnlần kiểm tra môn toán lớp 4; Từkết quảnghiên cứu, đánh giá những mặt được và những mặt chưa làm được của học sinh qua các lần khảo sát và kiểm tra môn toán. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kết quả giải toán điển hình lớp 4trong giảng dạy nói chung và nâng cao hiệu quả giải các loại toán có lời văncho học sinh tiểu học, trường Tiểu học B Long An nói riêng. b. Thời gian thực hiện: Quá trình nghiên cứu, đúc rút sáng kiếnđược tiến hành trên học sinh lớp 4A,trường Tiểu học B Long An - thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, năm học 2017 –2018 và năm học 2018 -2019. c. Biện pháp thực hiện: * Mục tiêu của biện pháp: Giúp học sinh nhận diệnđược từng dạng bài, nắm vững công thức, cách giải từng loại bài, biết cách đưa những bài toán phức tạp về dạng cơ bản để giải, khắc phục những sai lầm của học sinh khi giải các bài toán điển hình nhằm nâng cao hiệu quả dạy toán ở Tiểu học nói chung và khối lớp 4 nói riêng. * Nội dungvà cách thức thực hiện biện pháp: Các dạng toán điển hình lớp 4 có 4 dạng cơ bản được rải đều trên cả năm. Học kỳ I, học sinh được làm quen với 2 dạng đó là: - Tìm trung bình cộng. - Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Sang học kỳ II, học sinh tiếp tục được làm quen thêm 2 dạng toán điển hình nữa đó là: - Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó - Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó *Cách thức tiến hành: 1. Dạng 1: Tìm trung bình cộng Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 6 https://giaoanpowerpoint.net/
Khi dạy dạng toán này giáo viên cần cho học sinh hiểu được khái niệm “Trung bình cộng” nghĩa là cộng lại rồi chia đều thành các phần bằng nhau, mỗi phần bằng nhau đó chính là số trung bình cộng. Muốn tìm số trung bình cộng của hai hay nhiều số, ta tính tổng của các số đó rồi chia cho số các số hạng. Ví dụ 1: Bốn em Khánh, Hoa, Loan, An lần lượt cân nặng 36 kg, 38 kg, 40 kg, 34 kg. Hỏi trung bình mỗi em cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam? Sau khi cho học sinh phân tích đề toán giáo viên cần cho học sinh nhận dạng đây chính là dạng tìm số trung bình cộng. Nhưng điều quan trọng ở đây là giáo viên cần cho học sinh nêu được bài toán yêu cầu tìm số trung bình cộng cân nặng của bốn bạn và nêu được rằng: Muốn tìm số trung bình cộng cân nặng của bốn bạn ta tính tổngsố cân nặng của bốn bạn rồi chia cho 4 (4 là số số hạng), làm như vậy mới giúp học sinh xác định đúng số số hạng để tránh nhầm lẫn ở những bài toán phức tạp hơn. Ví dụ 2: Ba xe đầu, mỗi xe chở được 35 tạ. Hai xe sau, mỗi xe chở được 40 tạ hạng. Hỏi trung bình mỗi xe chở được bao nhiêu tạ hàng. Ở bài toán này nhiều em nhầm lẫn khi tìm trung bình mỗi xe chở được số tạ hàng lại lấy tổng số tạ hàng chở được rồi chia cho 2, do các em nhầm lẫn số lần chở và số xe chở. Do vậy để tránh nhầm lẫn giáo viên cần hướng dẫn như sau: + Bài toán yêu cầu tìm gì? (Trung bình mỗi xe chở được bao nhiêu tạ hàng.) + Muốn tìm trung bình mỗi xe chở được bao nhiêu tạ hàng ta làm thế nào? (Tính tổng số tạ hàng rồi chia cho số xe), vì bài toán hỏi trung bình mỗi xe chở được bao nhiêu chứ không hỏi trung bình mỗi lần chở được bao nhiêu. Ví dụ về bài toán liên qua đến trung bình cộng hay gặp trong khi giải toán trên đó là: Bắc có 32 viên bi, Trung có38 viên bi, Nam có số bi hơn số trung bình cộng của cả ba bạn là 4 viên bi. Tính số viên bi của Nam Ở bài toán này giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ như sau: Nam Bắc + Trung 4 TBC TBC TBC Từ việc cho HS nắm vững khái niệm số trung bình cộng tức là cộng lại rồi chia đều ra thành các phần bằng nhau, mỗi phần bằng nhau đó chính là số trung bình cộng. Vậy nhìn vào sơ đồ các em dễ dàngnhận thấy trung bình cộng số bi của ba bạn là: (32 + 38 + 4) : 2 = 35 (viên bi) Vì số bi của Nam nhiều hơn trung bình cộng số bi của ba bạn là 4 viên bi nên số bi của Nam là: 35 + 4 = 39 (viên bi) Đáp số : 39 viên bi Trong bài toán này học sinh thường nhầm lẫn, lúng túng ở bước tìm trung bình cộng số bi của mỗi bạn do các em hiểu chưa sâu, chưa hình dung ra trung bình cộng số bi của Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 7 https://giaoanpowerpoint.net/
mỗi bạn chính là giá trị mỗi phần trên sơ đồ đoạn thẳng hoặc có em hiểu rồi thì nhầm lẫn là lấy tổng số bi của hai bạn cộng với 4 rồi chia cho 3. Do đó giáo viên cần cho học sinh thấy được rằngtrung bình cộng số bi của mỗi bạn ứng với một phần trên đoạn thẳng mà bài toán cho biết số bi của Bắc và Trung rồi , nhìn lên sơ đồ ta thấy số bi của Bắc và Trung kém 4 viên nữa mới bằng giá trị của hai phần, vì vậy phải cộng số bi của hai bạn với 4 được giá trị của hai phần rồi chia cho 2 để được giá trị của một phần , giá trị một phần đó chính là số trung bình cộng. Trong quá trình tôi dạy ở bài đầu tiên học sinh còn lúng túng, chưa hiểu lắm do vậy tôi ra thêm 2 - 3 bài toán tương tự, yêu cầu các em tự vẽ sơ đồ rồi giải, khi chữa bài yêu cầu trình bày, giải thích cách làm, hiểu bài rồi các em cảm thấy rất thích và hứng thú. 2. Dạng 2: Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó Trong sách hướng dẫnchỉ ra công thức như sau: Số lớn = (Tổng + hiệu ) : 2 Số bé = ( Tổng - hiệu) : 2 Khi làm bài nhiều em thường áp dụng cả hai công thức trong một bài giải để tìm số lớn số bé, do vậy để giúp học sinh trình bày bài giải khoa học, tránh sử dụng cả hai công thức trong một bài giải. Giáo viên giúp học sinh hệ thống cách giải như sau: Cách 1: Nếu tìm số lớn trước thì có thể sử dụng công thức Số lớn = (Tổng + hiệu ) : 2 Số bé = Tổng –Số lớnhoặc Số bé = Số lớn - Hiệu Cách 2: Nếu tìm số bé trước thì có thể sử dụng công thức Số bé= (Tổng - Hiệu ) : 2 Số lớn = Tổng –Số bé hoặc Số lớn = Số bé + Hiệu Ở dạng toán này giáo viên cần cho học sinh xác định được đâu là tổng, đâu là hiệu, cái gì là số lớn, cái gì là số bé. ( Số lớn cộng với số béđược tổng, dấu hiệu để nhận biết tổng thuờng có các cụm từ: Cả hai thùng đựng được; cả hai thửa thu được; tuổi bố và tuổi con cộng lại, nửa chu vi hình chữ nhật…Số lớn hơn số bé thì phần lớn hơn gọi là hiệu hoặcsố bé kém số lớn đó cũng gọi là hiệu hay khoảng cách giữa số lớn và số bé cũng gọi là hiệu). Ví dụ 1: Tuổi bố và tuổi con cộng lại được 58 tuổi. Bố hơn con 38 tuổi. Hỏi bố bao nhiêu tuổi, con bao nhiêu tuổi. Đối với bài này học sinhcần xác địnhđượctổng là 58, hiệu là 38. Tuổi bố là số lớn, tuổi con là số bé. Như vậy học sinh dễ dàng áp dụng công thức để tìm tuổi bố và tuổi con. Với dạng toán này hầu như học sinh nào cũng làm đúng, làm tốt. Ví dụ 2: Một hình chữ nhật có nửa chu vi là 16cm, chiều dài hơn chiều rộng 4m. Tính diện tíchhình chữ nhật đó. Đây là bài tập tổng hợp cả hai dạng tính diện tích hình chữ nhật và dạng tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó. Mặt khác lại cách xa bài mới đã học, nên việc nhận dạng toán của học sinh có phần khó khăn, nhiều em chưa xác định được cách giải bài toán nhưng sau khi nghe gợi ý, hướng dẫn từ giáo viên thì các em làm bài rất tốt. Các bước gợi ý như sau: Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 8 https://giaoanpowerpoint.net/
+ Bài toán hỏi gì? (Tính diện tích hình chữ nhật) + Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta làm thế nào? (Lấy chiều dài nhân với chiều rộng) + Chiều dài và chiều rộng của hình chữ nhật đã biết chưa? (Chưa biết) + Làm thế nào để tính được chiều dài và chiều rộng của hình chữ nhật đó?( Dựa vào cách giải bài Toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số, trong đó nửa chu vi là tổng, hiệu là 4, số lớn là chiều dài, số bé là chiều rộng). Như thế học sinh dễ dàng giải được bài toán này như sau: Chiều dài hình chữ nhật là: (16 + 4 ) : 2 = 10 (cm) Chiều rộng hình chữ nhật là: 16 - 10 = 6(cm) Diện tích hình chữ nhật là: 10 x 6 = 60 (cm2) Sau khi chữa bài giáo viên nhắc học sinh ghi nhớ với dạng toán này thì nửa chu vi của hình chữ nhật là tổng, chiều dài hơn chiều rộng hay chiều rộng kém chiều dài bao nhiêu đó là hiệu, còn bài toán cho chu vicủa hình chữ nhật thì trước hếtphải tìm nửa chu vi sau đó mới áp dụng công thức để tìm chiều dài và chiều rộng. Ví dụ: một hình chữ nhật có chu vi là 198m, chiều rộng kém chiều dài 17m. Tính diện tích hình chữ nhật đó. Hướng dẫn giải như sau: + Cho học sinh nêu dạng toán( Dạng tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số ) + Nêu tổng và hiệu( Hiệu là 17m, tổng bị khuất) + Vậy muốn tìm tổng ta làm thế nào? ( Lấy chu vi chia cho 2) Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh tự giải bài toán này. 3. Dạng 3: Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó. Giáo viên giúp học sinh nắm vững các bướcgiải loại bài toán này như sau: + Bước 1: Vẽ sơ đồ đoạn thẳng ( Lưu ý học sinh cần dựa vào tỉ số để vẽ) Ở khâu này nhiều em lúng túng trong việc chọn đại lượng ứng với số phần bằng nhau của mỗi đoạn thẳng nên để giúp các em làm đúng giáo viên cần hướng dẫn các em đại lượng nào được nhắc đến trước thì ứng với số phần của tử số, đại lượng nào nhắc đến sau thì ứng với số phần của mẫu số. (Ví dụ: Số cây xoài bằng 2/3 số cây mít . Vậy số cây xoài ứng với 2 phần, số cây mít ứng với 3 phần). + Bước 2: Tìm tổng số phần bằng nhau. + Bước 3: Tìm số lớn( hoặc số bé) trước, lấy tổng chia cho tổng số phần bằng nhau rồi nhân với số phần của số cần tìm. +Bước 4: Tìm số còn lại ta lấy tổng trừ đi số đã tìm được. Ví dụ: Minh và Khôi có 25 quyển vở. Số vở của Minhbằng 2/3 số vở của Khôi. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu quyến vở? Hướng dẫn cách giải Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài, phân tích để xác định cái đã cho, cái phải tìm, xác định dạng toán bằng hệ thống câu hỏi như sau: + Bài toán cho biết gì? ( Minh và Khôi : 25 quyển vở, số vở của Minh bằng 2/3 số vở của Khôi) + Bài toán hỏi gì?( Số vở của mỗi bạn) Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 9 https://giaoanpowerpoint.net/
+ Bài toán thuộc dạng toán gì? ( Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó). Yêu cầu học sinh nêu các giải bài toán. Bước 1: Vẽ sơ đồ. Vẽ sơ đồ thế nào? ( Số vở của Minh 2 phần, số vở của Khôi 3 phần) -Yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ ? quyển vở Minh: 25 quyển vở Khôi : ? Quyển vở - Bước 2: Dựa vào sơ đồ, tìm tổng số phần bằng nhau: 2 + 3 = 5 ( phần) - Bước 3: Tìm số vở của mỗi bạn. + Muốn tìm số vở của Minh trước thì ta lấy tổng (25 quyển) chia cho tổng số phần bằng nhau (5 phần), rồi nhân với số phần của Minh (2 phần) + Muốn tìm số vở của Khôi trước thì ta lấy tổng (25 quyển) chia cho tổng số phần bằng nhau (5 phần), rồi nhân với số phần của Khôi (3 phần) Cách trình bày bài giải như sau: Theo sơ đồ tổng số phần bằng nhau là: 2 + 3 = 5 (phần) Số vở của bạn Minh là: 25 : 5 x 2 = 10 (quyển vở) Số vở của bạn Khôi là: 25 - 10 = 15 (quyển vở) Đáp số: Minh 10 quyển vở Khôi 15 quyển vở 4. Dạng 4: Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó. Ởdạng toán nàycác bước tiến hành tương tự dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó. Giáo viên cho học sinh đọc kĩđề Bước 1: Vẽ sơ đồ đoạn thẳng (Dựa vào tỉ số để vẽ). Ở bước này giáo viên có thể cho học sinh tự vẽ sau đó chỉnh sửa như sau: + Tỷ số 7/4 cho biết điều gì? ( chiều dài 7 phần, chiều rộng 4 phần ) + 12m ứng với phần nào trên sơ đồ đoạn thẳng? ( phần dài hơn của chiều dài so với chiều rộng ? m Ta có sơ đồ: Chiều dài: Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 10 https://giaoanpowerpoint.net/
12 m Chiều rộng: ? m Bước 2: Hướng dẫn giải bài toán + Muốn tìm hiệu số phần bằng nhau ta làm thế nào? ( ta lấy 7 phần của chiều dài trừ đi 4 phần của chiều rộng: 7 - 4 = 3 ( phần) + Theo sơ đồ, 12m ứng với mấy phần? ( 12m ứng với 3 phần ) + Làm thế nào để tìm được giá trị của một phần? ( lấy 12 : 3 = 4m ) + Biết giá trị của một phần ta có thể tìm số đo chiều dài được không ? Bằng cách nào? ( lấy giá trị một phần nhân với số phần của chiều dài ) + Tìm được chiều dài làm thế nào để tính được số đo chiều rộng? ( lấy số đo chiều dài trừ đi hiệu tức là số mét chiều dài hơnchiều rộng) Bước 3: Cách trình bày bài giải Theo sơ đồ ta có hiệu số phần bằng nhau là: 7 - 4=3 ( phần) Chiều dài hình chữ nhật là: 12 : 3 x 7 = 28 ( m) Chiều rộng hình chữ nhật là: 28 - 12 = 16 (m) Đáp số: Chiều dài: 28 m Chiều rộng: 16m Sau khi hướng dẫn giải bài toán, giáo viên cần cho học sinh rút ra quy tắc giải bài toán tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó như sau: - Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng - Tính hiệu số phần bằng nhau - Tìm đại lượng thứ nhất bằng cách lấy hiệu chia cho hiệu số phần bằng nhau, rồi nhân với số phần của đại lượng đó. - Tìm đại lượng thứ hai bằng cách lấy đại lượng thứ nhất cộng với hiệu( nếu đại lượng thứ hai là số lớn) hoặc lấy đại lượng thứ nhất trừ đi hiệu ( nếu đại lượng thứ hai là số bé). - Những đơn vị, cá nhân tham gia áp dụng sáng lần đầu: Sáng kiến này được áp dụng trongtrường Tiểu học B Long An, Giáo viên chủ nhiệm cấp Tiểu học. - Mức độ khả thi: a) Điều kiện để thực hiện biện pháp. - Đốivới giáo viên cần nắm vững các dạng toán điển hình, biết hệ thống các bài tập theo từng dạng bài và cách thức giải từng loại bài, biết dẫn dắt học sinh đi từ cái dễ đến cái khó, từ cái đơn giản đến cái phức tạp một cách nhẹ nhàng, logic. Điều tra nắm vững các đối tượng học sinh của lớp mình để có cách truyền tải kiến thức đến học sinh một cách hiệu quả nhất. Ví dụ lớp có nhiều học sinh chưa hoàn hành giáo viên cần rèn cho các em làm nhiều các bài toán dạng cơ bản để các em nắm chắc phương Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 11 https://giaoanpowerpoint.net/
pháp giải sau đó mới mở rộng dần. Nhưng lớp có nhiều học sinh hoàn thành tốt giáo viên có thể cho học sinh giải nhanh các bài tập cơ bản rồi đưa thêm các bài tập nâng cao hơn vào cuối tiết để các em làm như vậy sẽ kích thích được sự say mê, tìm tòi giải toán của học sinh. Tránh nói nhiều, làm thay học sinh mà cần đưa ra các câu hỏi mang tính chất gợi mở để các em tự tìm ra cách giải. Đối với học sinh cần ghi nhớ, học thuộc các công thức giải của từng loại bài tập để áp dụng vào giải toán. Trước khi giải toán cần đọc kỹ, phân tích đề toán, xác định cái đã cho, cái phải tìm, phát hiện dạng toán dựa vào các dấu hiệu đã học. Tập thói quen tóm tắt bài toán trước khi giải. b) Mối quan hệ giữa các biện pháp. Các biện phápđược nêu trong đề tài có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Muốn giải được một bài toán đòi hỏi học sinh phải nắm được các bước chung khi giải các dạng toán điển hình như sau: -Tìm hiểu bài toán (giáo viên phải nêu câu hỏi ngắn gọn dễ hiểu để học sinh hiểu rõ yêu cầu của đề toán) - Tìm cách giải bài toán (giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích các dữ liệu, điều kiện của bài toán, có thể cho học sinh nêu lại một số quy tắc lien quan đến cách giải bài toán từ đó học sinh tìm được các cách giải thích hợp) - Thực hiện cách giải bài toán (giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các phép tính đã nêu trong kế hoạch giải bài toán và trình bày cách giải - Kiểm tra cách giải bài toán (giáo viên phân tích cách giải toán xem học sinh giải đúng hay sai, sau đó nếu cách giải đúng thì ghi kết quả đáp số) Sau khi tìm được các bước chung khi giải một bài toán giáo viên chọn lọc một số dạng toán điển hình. Mỗi dạng điển hình phải lấy ra một ví dụ cụ thể và hướng dẫn học sinh áp dụng các bước đã học để giải toán. Từ những mối quan hệ trên đa số học sinh sẽ vận dụng vào giải toán một cách nhanh và thành thạo các bài toán từ dễ đến khó. IV- Hiệu quảđạt được: 1.Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến: a. Trước khi áp dụng sáng kiến: Qua thực tế giảng dạy tôi thấy các em còn rụt rè, còn lơ mơ khi xử lý những tình huống trong giải toán, thiếu tự tin trong xác định bài giải, thiếu sáng kiến và dễ nản chí khi gặp những bài toán có lời văn. Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng giải toán mà học sinh còn hạn chế. - Kết quả khảo nghiệm Tôi xin dẫn chứng cụ thể chất lượng giải toáncủa lớp 4B năm học 2017-2018 như sau: Giữa học kì I Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 12 https://giaoanpowerpoint.net/
Hoàn thành tốt SL 5 Hoàn thành SL 15 Chưa hoàn thành SL 10 Tổngsố học sinh TL 16,67 TL 50,00 TL 33,33 30 b. Sau khi áp dụng sáng kiến: Sau thời gian sử dụng các biện pháp trên trong hướng dẫn giải toán cho học sinh lớp 4, tôi thấy không khí lớp học vui tươi, rất nhiều học sinhtham gia học tập tích cực, giúp được nhiều học sinhchưa có kĩ năng giải toántiến bộ; giúp các em mạnh dạn, tự tin trong học tập, tinh thần đồng đội, tình thầy trò, tình bạn bè được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là khắc phục được những hạn chế trong xác định dạng toáncũng nhưng trong xử lý tình huống cụ thể mà giáo viên đặt ra, cuối năm họchọc sinhlớp tôi phụ trách, được quý đồng nghiệp ghi nhận sự tiến bộ của thầy và trò; góp phần thực hiện đổi mới phương pháp giải toáncho học sinhtheo chương trình giáo dục Tiểu học. Chất lượng cụ thể như sau: Cuối năm học Tổngsố học sinh SL TL SL 30 12 40,00 18 Từ hai bảng thống kê trên tôi nhận thấy việc dạy toán điển hình nhằm giúp học sinh biết phát huy tính tích cực. Hình thành thói quen làm việc tích cực, tư duy sáng tạo. Đặc biệt hơn nữa là học sinh lớp 4B do tôi chủ nhiệm, các em rất ham thích học các dạng toán giải có lời văn. Trong giờ học toán, các em có sự tiến bộ rõ rệt, đạt kết quả cao trong các kỳ kiểm tra toán. Từ đó giúp các em say mê học tập, thích được tìm hiểu, biết được nhiều kiến thức mới lạ. Đó là niềm vui, khích lệ tinh thần cho riêng tôi, hơn nữa trong nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy đã tạo cho tôi niềm tin, mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy học để đạt kết quả cao trong giảng dạy. 2.Lợi ích thu được khi sáng kiến áp dụng: *Đối với học sinh: Học sinh tự tin hơn trong xác định dạng toán và tìm lời giải phù hợp với yêu cầu của đề bài; hiểu biết cơ bản về các dạng toán điển hình. Các em có đủ khả năng tự mình giải được các bài toán điển hình đã học, tự chủ, độc lập,tự tin khi giải các bài toán trước ở nhà, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước lên lớp trên. *Đối với giáo viên: Trong từng tiết dạy giáo viên xác định khối lượng kiến thức cần giảng dạy cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL 00 TL 60,00 TL 00 Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 13 https://giaoanpowerpoint.net/
tâm, khơi gợi cho học sinh tính chủ động, tự khám phá và tự tin trong mọi tình huống khi cần xử lý. Qua dạy toáncho học sinh giáo viên còn tự rèn luyện và bổ sung thêm kiến thức cho bản thân mình áp dụng vào đời sống thực từ đó tạo mối quan hệ giữa thầy và trò thêm thân thiết. *Đối với tổ chuyên môn: Trong công tác giảng dạy giáo viên là người chỉ đạo nhưng lấy học sinh làm trung tâm dạy theo hướng phát huy tính tích cực hóa của học sinh. Giáo viên sử dụng linh hoạt trong sử dụng phương pháp và ứng xử sư phạm để thích ứng với đối tượng và hoàn cảnh là yếu tố quan trọng cho sự thành công của mỗi bài dạy. Phối hợp nhiều phương pháp sẽ giúp cho học sinh không nhàm chán và có hứng thú với môn học. Đặc biệt đối với những học sinh học toán chưa tốt. Giáo viên cầnlinh hoạt trong phương pháp dạy học sẽ giúp cho mọi học sinh có cơ hội phát huy khả năng giải toáncủa mình. Trong giờ họcđể tạo niềm tin cho các em phấn khởi tham gia tích cực các hoạt độngphát triển năng lựcvà tư duy sáng tạođể áp dụng vàocác phương pháp học toán… V. Mức độ ảnh hưởng: a. Khả năng áp dụng biện pháp: Sau khi hoàn thành đề tài này, tôi đã trình bày sáng kiếnnhững việc làm của bản thân để cùng thảo luận với các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn. Được sự đồng ý, khuyến khích của Ban giám hiệu trong nhà trường, các đồng chí giáo viên lớp 4 đã đưa đề tài của tôi vào thử nghiêm ở lớp mình và đều thu được những kết quả đáng kể. Do vậy, hiện nay, chất lượng thực hiện giải toán điển hìnhlớp 4 trường tôi có rất nhiều tiến bộ. Đề tài này có khả năng áp dụng vào các trường Tiểu học. Đặc biệt là giáo viên dạy lớp 4 và lớp 5. b. Những điều kiện cần thiết để áp dụng: *Với giáo viên: - Phải có lòng say mê nghề nghiệp, luôn có ý thức tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo. - Nắm được mục đích, nội dung, phương pháp, yêu cầu cần giáo dụccho học sinh nói chung, của từng bài nói riêng. - Sử dụng linh hoạt, sáng tạo, đổi mới các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Cần tạo ra thói quen tiếp thu phương pháp học sáng tạo và tạo phong trào thi đua giữa các học sinh trong lớp với nhau. - Cần đưa yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh. trong các tiết học chú ý dạy theo đối tượng. *Đối với học sinh: - Luôn có ý thức tự tiếp thu, thường xuyên luyện tập các kĩ năng giải toándiễn ra hàng ngày để cho bản thân luôn hoàn thiện Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 14 https://giaoanpowerpoint.net/
- Trong các tiết học cần tích cực chủ động tham gia các hoạt động xử lý tình huống để tiếp thu kiến thức sao cho ngày càng tốt hơn. VI- Kết luận: Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp 4, tôi thấy rằng: là người giáo viên phải luôn luôn trau dồi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Hướng dẫn và giúp đỡ học sinh có kiến thức và kỹ năng giải toán, giảm bớt những khó khăn sai sót trong dạy và học toán điển hình đồng thời nâng cao năng lực khái quát hóa, trừu tượng hóa, phát triển tư duy, óc sáng tạo, phương pháp suy luận logic cho học sinh. Người giáo viên cần lưu ý vấn đề sau: - Phải nghiên cứu kỹ bài dạy, xác định rõ kiến thức trọng tâm trong mỗi bài học. Khi dạy phải có sơ đồ trực quan để giúp học sinh dễ học, dễ hiểu. Cuối bài học phải khắc sâu, nhấn mạnh những kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm cần ghi nhớ cho học sinh. - Khi dạy toán cần yêu cầu học sinh đọc kỹ bài toán, nhận biết được cái đã cho và cái phải tìm trong mỗi bài, mối quan hệ giữa các đại lượng, hiểu thật kỹ một số từ, thuật ngữ quan trọng, chỉ rõ tình huống toán học. Sau đó thuật lại vắn tắt bài toán mà không cần phải đọc nguyên văn bài toán đó. - Yêu cầu học sinh mình học, tóm tắt bài toán ( bằng hình vẽ, sơ đồ, lời văn…) trước khi giải. Hình vẽ, sơ đồ tóm tắt phải đúng và đầy đủ các dữ kiện của đề bài. - Thường xuyên ôn tập, củng cố khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng hệ thống các bài tập từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó để rèn kỹ năng giải toán cho học sinh, đồng thời giúp học sinh nắm vững cách giải. Trên đây là một sáng kiếnnhỏ từ thực tế giảng dạy tôi đã áp dụng khi dạy mảng toán điển hình. Kết quả học sinh nắm kiến thức một cách vững chắc, hiểu rõ, nhớ lâu những nội dung cần ghi nhớ và vận dụng linh hoạt những nội dung đó để làm bài, có kỹ năng tốt khi giải các bài toán điển hình, hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót không đáng có. Giảm hẳn những khó khăn, lúng túng khi đứng trước các bài toán điển hình đồng thời còn rèncho các em phương pháp suy nghĩcó căn cứ, phương pháp suy luận, làm việc có kế hoạch… góp phần thực hiện mục tiêu của môn toán ở tiểu học. Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kến Người viếtsáng kiến Lê Minh Trung Người thực hiện: Lê Minh TrungTrường Tiểu học B Long An 15 https://giaoanpowerpoint.net/