1 / 14

Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2

Trong cuu1ed9c su1ed1ng hu1eb1ng ngu00e0y, khi nu00f3i vu1ec1 tu1ea7m quan tru1ecdng cu1ee7a phu00e9p tu00ednh, u00f4ng bu00e0 ta thu01b0u1eddng nhu1eafc u0111u1ebfn cu00e2u tu1ee5c ngu1eef: u201cSai mu1ed9t li, u0111i mu1ed9t du1eadmu201d. Thu1eadt vu1eady, nu1ebfu nhu01b0 kiu1ebfn thu1ee9c mu00f4n vu0103n giu00fap cho hu1ecdc sinh giao tiu1ebfp nu00f3i nu0103ng hiu1ec7u quu1ea3 thu00ec kiu1ebfn thu1ee9c mu00f4n tou00e1n lu1ea1i giu00fap cho cu00e1c em vu1eadn du1ee5ng bu1ed5 u00edch vu00e0o nhu1eefng viu1ec7c nhu01b0: xu00e2y nhu00e0, bu1eaft cu1ea7u, mua bu00e1n, u2026 Vu00ec vu1eady, viu1ec7c du1ea1y hu1ecdc tou00e1n u1edf nhu00e0 tru01b0u1eddng tiu1ec3u hu1ecdc ru1ea5t quan tru1ecdng. Hu1ecdc sinh hu1ecdc tu1ed1t mu00f4n tou00e1n su1ebd gu00f3p phu1ea7n thu1ef1c hiu1ec7n thu00e0nh cu00f4ng mu1ee5c tiu00eau giu00e1o du1ee5c tiu1ec3u hu1ecdc. Nu00f3 lu00e0 nu1ec1n tu1ea3ng giu00fap hu1ecdc sinh hu1ecdc tu1ed1t cu00e1c mu00f4n hu1ecdc khu00e1c, u0111u1ed3ng thu1eddi tu1ea1o u0111u00e0 thuu1eadn lu1ee3i u0111u1ec3 hu1ecdc tiu1ebfp lu00ean cu00e1c lu1edbp tru00ean.

Download Presentation

Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán Lớp 2

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. PHỤ LỤC I. Sơ lược lý lịch tác giả Trang 2 II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị Trang 2 - Tên sáng kiến Trang 2 - Lĩnh vực Trang 2 - 3 III. Mục đích, yêu cầu của sáng kiến Trang 3 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến Trang 3 2. Sự cần thiết áp dụng sáng kiến Trang 4 3. Nội dung sáng kiến Trang 4 3.1 Thời gian thực hiện Trang 4 3.2 Tiến trình thực hiện Trang 4 3.3 Biện pháp tổ chức Trang 5 3.3.1. Phép cộng có nhớ trong phạm vi 100 Trang 6 - 8 3.3.2. Phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 Trang 8 - 9 3.3.3. Về tính giá trị biểu thức Trang 9 3,3,4. Bài tập dạng tìm Trang 9 - 11 IV. Hiệu quả đạt được Trang 11 - 12 V. Mức độ ảnh hưởng Trang 12 - 13 VI. Kết luận chung Trang 13 - 14 SKKN Trang 1 https://giaoanpowerpoint.net/

  2. PHÒNG GD- ĐT TÂN CHÂUCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH B LONG AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Long An, ngày 04 tháng 12 năm 2018 BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN; MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2 I. Sơ lược lý lịch tác giả: Họ và tên: Liêu Đức Trí - Nam, nữ: Nam Ngày tháng năm sinh: 26/07/1965 Nơi thường trú: ấp B2, xã Long An, thị xã Tân Châu tỉnh An Giang Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp Trình độ chuyên môn: Đại họcsư phạm Linh vực công tác: Giáo viên Tiểu học II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: * Đặc điểm tình hình: Năm học 2018 – 2019, tôi được Ban giám hiệu phân công dạy lớp 2B, với sỉ số là 24 học sinh. Trong đó có 15 em nam và 9em nữ. Trong 2 tuần đầu làm quen với các em, tôi nhận thấy hầu hết các em học sinh là vùng nông thôn nên cha mẹ ít quan tâm đến mọi mặt của con cái, nhất là sức khỏe và học tập. Bên cạnh đó số đông học sinh con nông dân, nhiều em cha mẹ làm ăn xa,sống ở nhà với ông bà. Với đặc điểm lớp tôi như thế nên có một số thuận lợi và khó khăn như sau: 1. Thuận lợi: - Chương trình đã được giảng dạy nhiều năm. Giáo viên đã có những kinh nghiệm giảng dạy, đã được thao giảng vàdự giờ chuyên đề về môn toán, có sự trao đổi, rút ra kinh nghiệm các tiết dạy. - Cơ sở vật chất trường đủđảm bảo việc học tập cho các em.Đa số học sinh có ý thức họctốt, được cha mẹ quan tâm chu đáo. Riêng bản thân tôi luôn tự nghiên cứu, tìm tòi, đọc sách, tài liệu tham khảo và học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp để vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực sao cho đạt hiệu quả cao nhất và tạo hứng thú, niềm say mê học tậpcho học sinh trong giờ toán. - Số lượng học sinh tươngđốivừa phải, học sinh có đủ các điều kiện để học tập. 2. Khó khăn: - Một sốhọc sinh, chủ yếu cha mẹlà nông dân, làm mướn, làm ăn xa. nên không có điều kiện quan tâm tới việc học tập của các em. Đasố các em chưa có ý thứctự giác vềviệchọc. Việchọctậpcủa các em cần p hải có ngườinhắcnhở. + Mộtsốphụ huynh còn coi nhẹviệchọc tậpcủa con em. + Thời gian họctậpcủa các em còn hạnchế, các em còn ham chơihơn ham học. SKKN Trang 2 https://giaoanpowerpoint.net/

  3. + Mộtsố em chưanắmđượckiếnthứcvềthực hành phép công.trừ có nhớ, giải toán có lời văn thiếu chính xácnên thường làm toán sai. - Với những thuận lợi và khó khăn như vậy tôi đã tìm ra một số biện pháp nhằm giúp các em học tốt phân môn toán. Tên Sáng Kiến: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2 - Lãnh vực: Chuyên môn III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến - Trong cuộc sống hằng ngày, khi nói về tầm quan trọng của phép tính, ông bà ta thường nhắc đến câu tục ngữ:“Sai một li, đi một dậm”. Thật vậy, nếu như kiến thức môn văn giúp cho học sinh giao tiếp nói năng hiệu quả thì kiến thức môn toán lại giúp cho các em vận dụng bổ ích vào những việc như: xây nhà, bắt cầu, mua bán, … Vì vậy, việc dạy học toán ở nhà trường tiểu học rất quan trọng. Học sinh học tốt môn toán sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu giáo dục tiểu học. Nó là nền tảng giúp học sinh học tốtcác môn học khác, đồng thời tạo đà thuận lợi để học tiếp lên các lớp trên. - Tuy vậy, trong thực tế nhiều năm dạy học khối lớp 2, năm nào tôi cũng gặp phải hiện tượng học sinh học chưa tốt môn toán. Vấn đề này hầu như có đều ở các khối lớp chứ không riêng gì khối lớp 2. Nó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học nói chung. Cho nên, cần phải có những biện pháp để khắc phục tình trạng trên. Tôi liền đổi mới nội dung, phương pháp dạy học năm học 2017-2018, 2018 - 2019 tôi đã thực hiện đề tài này cho thấy kết quả dạy học đã được nâng lên, bước đầu khuyến khích học sinh học tốthơn. Qua hai năm thử nghiệm bổ sung nhiều thiếu sót, đúc kết rút kinh nghiệm, năm học 2018 - 2019 tôi tiếp tục vận dụng đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toánlớp 2” trong giảng dạy môn toán 2, nhằm trang bị cho học sinh một tư duy mới, một phương pháp mới khoa học và ưu việt. 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dung sáng kiến - Dạy toán lớp 2 nhằm giúp học sinh bước đầu có một số kiến thứccơ bản về phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, biết khái niệm về phép nhân, chia, tính giá trị biểu thức số có 2 phép tính, làm các bài tập dạng tìm thành phần chưa biết của phép tính, giải toán có lời văn… - Từ kinh nghiệm giảng dạy môn toán trong nhiều năm qua, tôi nhận thấy một số em học chưa tốt môn toán thường gặp nhiều khó khăn ở các dạng bài như sau: (1) Cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100. (2) Tìm thành phần chưa biết của phép tính. (3) Giải toán có lời văn. (4) Tính giá trị biểu thức. - Đây là những kiến thức quan trọng. Đối với những học sinh học tốt, các em nắm chắc các quy tắc tính và thuộc lòng các bảng cộng, bảng trừ, nên hiệu quả làm bài đạt rất cao. Còn đối với những học sinh học còn chậm thì sao? Các em này không thuộc bảng cộng, bảng trừ nên các emlúng túng trông chờ vào bạn. - Thực tế dạy học nhiều năm, tôi thấy một số học sinh học chưa tốt môn toán thường xuyên không làm được bài tập, hoặc làm sai kết quả các bài tính và đặt tính, tính SKKN Trang 3 https://giaoanpowerpoint.net/

  4. giá trị biểu thức; các dạng bài tìm thành phần chưa biết của phép tính và giải toán có lời văn cũng sai không ít. Khi kiểm tra, giáo viên phát hiện nhắc nhở, yêu cầu học sinh phải thuộc bảng cộng, bảng trừ, các quy tắc tìm thành phần chưa biết của phép tính. Việc nhắc nhở đó ít khi có kết quả đối với đối tượng học sinh học hay quên. - Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, tăng cường luyện tập thực hành, hình thành kĩ năng toán học cho học sinh, song số lượng học sinh học chưa tốt môn toán ở mỗi khối lớp vẫn không ít. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến - Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua bài tập. Giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc thực hiện các phép tính của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy những ưu điểm khắc phục thiếu sót. - Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh tính toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. - Việc tính toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực. Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v… - Từ kinh nghiệm giảng dạy môn toán trong nhiều năm qua, tôi nhận thấy một số em học chưa tốt môn toán thường gặp nhiều khó khăn.Là một giáo viên có tâmhuyết với nghề, ai mà không lo lắng, trăn trở. Với tôi cũng vậy, câuhỏi: “Làm thế nào để học sinh học tốt môn toán?” cứ thường trực trong tôi sau mỗi giờ lên lớp. - Từ đó, nó thôi thúc tôi phải tìm tòi, nghiên cứu, tìm ra giải pháp khác. Cuối cùng tôi đã tìm tòi và thử nghiệm một số biện pháp giúp học sinh học tốtToán lớp 2. (Làm thế nào cả lớp đều hiểu và làm được bài tập theo chuẩn kiến thức kỹ năng cần đạt. Qua thời gian dài tìm hiểu và tiến hành thử nghiệm các biện pháp, cuối cùng tôi đã tìm ra kết quả là các em đã từng bước có tiến bộ. Thế là tôi quyết định thực hiện một vài biện pháp để hỗ trợ các em học toán theo cách ghi nhớ khác và đã đạt được một số thành tích tốt. 3. Nội dung sáng kiến 3.1. Thời gian thực hiện: Việc dạy vả học của học sinh khối 2 trườngTiểu học B Long An năm học 2017- 2018 và từ năm học 2018-2019 đến nay. 3.2.Tiến trình thực hiện: Để đạt được kết quả theo yêu cầu của ngành, cũng như sự mong muốn của bản thân. Tôi tiến hành thực hiện một số nhiệm vụ sau: SKKN Trang 4 https://giaoanpowerpoint.net/

  5. - Đầu năm học tôi tranh thủ xem lại hồ sơ lý lịch của học sinh, tìm hiểu qua giáo viên chủ nhiệm năm trước và bạn bè trong lớp học, gặp và trao đổi với phụ huynh học sinh. Từ đó tôi nắm được sơ bộ về hoàn cảnh gia đình năng lực học tập và luôn cả cá tính của từng em. Tất cả những gì tìm hiểu được tôi đều ghi vào sổ tay theo dõi riêng. Đánh dấu (*) cần chú ý một số em cá biệt để tiện theo dõi. - Việc sắp xếp chỗ ngồi cũng góp phần không nhỏ trong việc năng cao chất lượng. Tôi sắp xếp những em học tốt ngồi cạnh những em học chưa tốt để các em có điều kiện giúp đỡ nhau trong quá trình học tập. - Đối với học sinh lớp 2 là độ tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” hay quên. Nên khi cần cho học sinh ghi nhớ vấn đề nào đó, tôi hay dùng những cụm từ ngắn gọn gần gũi thực tế để các em dể nhớ. - Việc ôn lại kiến thức cũ cũng góp phần khá quan trọng trong việc học toán. Nên ở cuối lớp học tôi tạo cho các em một góc học tập có ghi lại các nội dung cần thiết để các em ôn luyện. - Trong tiết dạy tôi luôn sử dụng đầy đủ các thiết bị dạy học một cách hợp lý và hiệu quả, tổ chức thi đua, vui chơi… Bên cạnh đó, tôi thường xuyên quan tâm gần gũi chỉ dạy học sinh nắm bài chậm trong từng tiết học, giờ ra chơi, cuối buổi học,… luôn tạo không khí vui tươi, cởi mở, tạo điều kiện cho hoc sinh phấn khởi khi đến lớp, hứng thú trong học tập. Đặc biệt đối với học sinh học chưa tốt, tôi quyết tâm không bao giờ để các em ngồi bên lề lớp học, quan tâm khích lệ đến những thành tích dù nhỏ nhất của các em. Tôi luôn xử sự khéo léo để các em không mặc cảm. - Xây dựng cho các em có nề nếp tự học ở lớp cũng như ở nhà. - Tùy theo mức độ của học sinh. Tôi có một số biện pháp phù hợp để giúp đỡ các em chiếm lĩnh kiến thức một cách hiệu quả nhất. - Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài tập để củng cố, thực hành trực tiếp các kiến thức mới, tôi vừa giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản nhất vừa hình thành được phương pháp học tập cho các em. SKKN Trang 5 https://giaoanpowerpoint.net/

  6. - Cùng với việc đổi mới về cấu trúc, nội dung sách giáo khoa, trong mỗi tiết học tôi tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập giúp các em nắm được kién thức cơ bản của tiết học, khuyến khích học sinh tìm ra kết quả bằng nhiều cách.Đồng thời hình thành và rèn cho học sinh các kĩ năng thực hành, đặc biệt là kĩ năng tính và giải quyết vấn đề thông qua các bài tập từ dễ đến khó, giúp học sinh khắc sâu kiến thức thấy được sự đa dạng và phong phú của các bài tập, từ đó tập cho học sinh thói quen khai thác nội dung tiềm ẩn trong từng bài tập, lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, vận dụng trong đời sống một cách chủ động, linh hoạt và sáng tạo. 3.3/ Biện pháp tổ chức: 3.3.1. Phép công có nhớ trong phạm vi 100 * Biện pháp 1: + Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Đây là biện pháp tối ưu trong tiết dạy. Nếu giáo viên thiếu sự chuẩn bị thì kết quả tiết dạy không cao. Khi sử dụng đồ dùng dạy học phải phù hợp với từng tiết học, mới đạt hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh, nó làm tiết dạy thêm sinh động. Ví dụ: 29 + 5 = ? - Giáo viên chuẩn bị: + 3 thẻ bó chục, 14 que tính rời, thước kẻ, phấn màu. - Học sinh chuẩn bị: + Que tính, thước kẻ. SKKN Trang 6 https://giaoanpowerpoint.net/

  7. - Giáo viên giới thiệu bài toán: có 29 que tính, thêm 5 que tính nữa. Hỏi tất cả có bao nhiêu que tính ? - Nhằm bước đầu giúp học sinh tìm kết quả bằng cách thao tác que tính. Giáo viên nêu và thể hiện các hình ảnh minh hoạ thao tác trên que tính như (Sách giáo khoa). * Biện pháp 2: - Hình thành “quy tắc tính”gồm 2 bước: Đặt tính và tính. Yêu cầu học sinh biết cách thực hiện phép tính và thuộc quy tắc tính. Ví dụ 1: 29 9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1 + 5 2 thêm 1 bằng 3, viết 3 34 Vậy 29 + 5 = 34 - Quy tắc tính rõ ràng như thế nhưng vẫn còn một số em làm sai. Vì các em không thuộc bảng cộng hay thuộc rồi lại quên. - Tôi bắt đầu dùng cách khác để giúp các em có thể tính đúng. Đó là cách: - Dùng que tính đếm thêm 1 cho đến hết. Ví dụ 2: 9 + 5 = ? (9 thêm 1 bằng 10, 10 thêm 1 bằng 11, 11 thêm 1 bằng 12, 12 thêm 1bằng 13, 13 thêm 1 bằng 14).Vậy 9 + 5 = 14 - Sau đó tiến tới bước tính dọc (đây là bước tôi thực hiện trong 2 năm qua). Ví dụ3: 29 +●5 34 - Yêu cầu học sinh lấy 9 que tính rồi đếm thêm 1 đến hết 5 que tính nữa được 14 que tính, viết 4 nhớ 1, ghi dấu chấm (●) trước số 5 (● xem như 1) để khi tính bước tiếp theo 2 gặp (●) nhớ cộng thêm 1 bằng 3 viết 3 Ví dụ 4: 28 +●14 42 - Học sinh lấy 8 que tính, rồi đếm thêm 1 đến hết 4 que tính nữa được 12, viết 2 nhớ 1, ghi dấu chấm (●) trước số 1 (● xem như 1), để khi tính bước tiếp theo 2 cộng 1 bằng 3 gặp (●) cộng thêm 1 bằng 4 viết 4. - Tiến hành tương tự với các bài còn lại. * Lưu ý: - Làm sao có thể biết bài tính có nhớ hay không nhớ ? - Cho học sinh lấy 2 chữ số ở hàng đơn vị cộng lại, nếu kết quả nhỏ hơn 10 là tính không nhớ. Kết quả bằng 10hoặc lớn hơn 10 ta chỉ viết chữ số sau cùng và nhớ 1 ở hàng chục. Ví dụ 1: 28 + 11 9 SKKN Trang 7 https://giaoanpowerpoint.net/

  8. - (8 cộng 1 bằng 9 viết 9 thẳng cột với 8 và 1, không nhớ). Ví dụ 2: 36 + ●24 0 (6 cộng 4 bằng 10 chỉ viết chữ số 0 thẳng cột với 6 và 4 nhớ 1). Ví dụ 3: 28 + ●14 2 (8 cộng 4 bằng 12 chỉ viết chữ số 2 thẳng cột với 8 và 4 nhớ 1). * Biện pháp 3: - Trong giai đoạn đầu học sinh mới tiếp cận với loại phép tính có nhớ. Nên tôi thường khắc sâu quy tắc tính cho học sinh bằng cách nêu quy tắc tính nhiều lần. - Để học sinh hứng thú học tôi luôn thay đổi các hoạt động học như: làm bảng con, làm vở bài tập, bảng cài, bảng lớp, thi đua, trò chơi… Ngoài những hoạt động trên, tôi không quên dạy theo phân hoá đối tượng học sinh. Đây là chủ trương của ngành. Muốn sử dụng biện pháp này tốt, người dạy học phải chuẩn bị kỹ bài giảng, đồng thời phải cho bài tập phù hợp với từng đối tượng Học sinh. 3.3.2. Phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 - Đối với phép trừ có nhớ ta cũng thực hiện qua 3 biện pháp (Biện pháp 1, biện pháp 3) thực hiện như trên. * Biện pháp 1: - Tôi hướng dẫn: Ví dụ 1: 52 -●8 44 - Yêu cầu học sinh so sánh nhẩm 2 nhỏ hơn 8, nên 2 không trừ được 8, lấy 12 trừ 8 bằng 4, viết 4 nhớ 1. Ghi (●) trước số 8, (● xem như 1) để khi tính bước tiếp theo 5 găp (●) nhớ trừ 1 bằng 4 viết 4. - Học sinh nắm bài chậm vẫn còn lúng túng vì chưa thuộc bảng trừ. Nên tôi hướng dẫn bằng cách lấy bớt đi que tính như sau: Ví dụ 2: 52 -●8 44 - 2 nhỏ hơn 8 lấy thêm 1 chục được 12 trừ 8 (bằng cách lấy 12 que tính bớt 8 que tính còn 4 que tính) viết 4 nhớ 1 (ghi ● trước số 8) dấu (●) xem như 1. (Khi thực hiện bước tính tiếp theo 5 găp (●) nhớ trừ 1 bằng 4 viết 4. Ví dụ 3: 52 -●28 24 SKKN Trang 8 https://giaoanpowerpoint.net/

  9. - 2 nhỏ hơn 8 lấy thêm 1 chục được 12 trừ 8 (bằng cách lấy 12 que tính bớt 8 que tính còn 4 que tính) viết 4 nhớ 1 (ghi ● trước số 1) dấu (●) xem như 1. (Khi thực hiện bước tính tiếp theo ta nhớ thêm 1 vào chữ số vừa chấm rồi mới tiến hành trừ và ghi kết quả thẳng cột với cột chục). 2 thêm 1 bằng 3, 5 trừ 3 bằng 2, viết 2. - Qua 3 ví dụ trên tôi khắc sâu cho học sinh nhớ: chữ số ở hàng đơn vị của số bị trừ là “mấy” ta sẽ lấy “mười mấy”để trừ (là số 2 lấy 12, là số 3 lấy 13, là số 4 lấy 14, là số 5 lấy 15…). - Trong trường hợp học sinh còn lẫn lộn “lấy số lớn ở dưới trừ ngược số nhỏ ở trên”. Tôi sẽ khắc sâu cho các em “lấy số trên trừ số dưới” và “trừ từ phải sang trái”. - Nếu còn học sinh làm chưa được tôi hướng dẫn thêm cách khác: Tôi cho các em làm bài trên giấy nháp rồi sau đó mới ghi vào tập hoặc giấy kiểm tra (không ghi chữ số khoanh tròn và các vạch thẳng). Ví dụ: Bước 1: 52 ﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍﺍ -●28 4 vạch 12 vạch rồi bỏ 8 vạch còn 4 vạch, viết 4 nhớ 1, ghi (●) trước số 2 Bước 2: ﺍﺍﺍﺍﺍ 52 2 gặp (●) thêm 1 được 3 viết . 24 Vạch 5 vạch, rồi bỏ 3vạch còn 2 vạch, viết 2 ở cột chục của bài toán. 3.3.3. Về tính giá trị biểu thức - Khi gặp dạng toán này học sinh thường lúng túng không biết làm phép tính nào trước hoặc làm 1 phép tính mà thôi. Đối với loại toán này tôi thường nhấn mạnh cho học sinh nhận biết biểu thức có mấy phép tính? (2 phép tính). Ta thực hiên theo 2 lần tính. Thứ tự thực hiện từtrái sang phải và gạch dưới phép tính thực hiện trước để học sinh dể tính. Ví dụ: 3 x 3 + 6 = 9 + 6 *3 nhân 3 bằng 9 viết 9. Lấy 9 cộng 6 bằng = 15 15 viết 15. 25 : 5 – 3 = 5 –3 *25 chia 5 bằng 5 viết 5.Lấy 5 trừ 3 bằng 2 = 2 viết 2. 3.3.4. Bài tập dạng tìm x - Khi dạy các bài này, yêu cầu học sinh dựa vào mối quan hệ giữa thành phần tên gọi, kết quả phép tính và quy tắc tính để tìm x. Nhưng khi làm bài các em không nhớ được quy tắc tính, nên tôi hình thành một cách nhớ riêng: * Dạng x+a = b (Gặp phép tính cộng ta thực hiện tính trừ a + x = b (Lấy số lớn trừ số bé). Nêu quy tắc muốn tìm số hạng chưa biết ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. Ví dụ 1: x + 7 = 10 X = 10 –7 (10 là số lớn, 7 là số bé). X = 3 -●28 SKKN Trang 9 https://giaoanpowerpoint.net/

  10. Ví dụ 2: 5 + x = 12 x = 12 - 5 (12 là số lớn, 5 là số bé). X = 7 * Dạng x - a = b a – x = b tìm x với phép tính trừ (-). Ta quan sát xem x đứng trước dấu trừ hay đứng sau dấu trừ (-). Nếu x đứng trước dấu trừ ta thực hiện tính cộng (+). Nếu x đứng sau dấu trừ ta thưc hiện tính trừ (-), hoặc là cho học sinh thuộc câu “trước cộng sau trừ”. Ví dụ 1: Nêu quy tắc muốn tìm số bị trừ chưa biết ta lấy hiệu cộng với số trừ. x –6 = 3 (Lấy số đứng sau dấu bằng cộng số đứng trước dấu bằng). X = 3 +6 X = 9 Ví dụ 2: - Nêu quy tắc muốn tìm số trừ chưa biết ta lấy số bị trừ trừ số hiệu. 9 – x = 5 (Lấy số lớn trừ số bé). X = 9 – 5 X = 4 * Dạng a x X = b X x a = b - Gặp phép nhân ta thực hiện tính chia. (Lấy số lớn chia số bé) -Nêu quy tắc muốn tìm thừa số chưa biết ta lấy tích chia cho thừa số đã biết. Ví dụ1: X x 5 = 10 X = 10 : 5 (10 là số lớn, 5 là số bé). X = 2 Ví dụ 2: 3 x X = 15 X = 15: 3 (15 là số lớn,3 là số bé). X = 5 * Dạng X : a = b (tìm x với phép tính chia (:) x nằm phía trước dấu chia (:) ta thực hiện tính nhân (x). Ví dụ: Nêu quy tắc muốn tìm số bị chia chưa biết ta lấy thương nhân với số chia. X : 3 = 4 (Lấy số đứng sau dấu bằng nhân số đứng trước dấu bằng) x = 4 x 3 x = 12 4. Giải toán: - Toán có lời văn lớp 2 là loại toán đơn có một phép tính (+, -, x hoặc :) Đối với loại toán này các em thường sai lời giải và đơn vị. Về lời giải: Tôi hướng dẫn như sau. Cách 1: SKKN Trang 10 https://giaoanpowerpoint.net/

  11. - Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải. - Bỏ chữ “hỏi” và chữ “bao nhiêu”. - Thêm vào chữ “là” ta sẽ được lời giải. Ví dụ: Bình có 10 cái kẹo, Quang có 5 cái kẹo. Hỏicả hai bạn cóbao nhiêu cái kẹo? (Cả hai bạn có cái kẹo là). Cách 2: - Dựa vào câu hỏi để đặt lời giải. - Thay chữ “số” và “đơn vị” vào chỗ chữ hỏi. - Thêm chữ “là” cuối câu ta được lời giải. (Số cái kẹo cả hai bạn có là) Trường hợp ngoại lệ rất ít. Khi gặp trường hợp đó tôi hướng dẫn thêm cho học sinh. - Về đơn vị học sinh hay nhầm. Nên tôi chỉ cho học sinh nhận ra “đơnvị” thường là những chữ gần ở trước dấu (?). Ví dụ: (cái kẹo). - Với các hình thức hỗ trợ cho các em trong việc học tốt môn toán nêu trên. Tôi nhận thấy các em đã từng bước tiến bộ làm tính chính xác, có tự tin. Không còn ỷ lại chờ bạn kế bên. Các em đã nhận thức được việc học tập do chính bản thân các em gặt hái được. Song trong quá trình học tập các em được làm các bài tập liên tục lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ giúp các em củng cố ghi nhớ trong tìm thức các em, giúp các em thuộc lòng bảng cộng, bảng trừ lúc nào mà chính bản thân các em cũng không hay. Thực hiện đúng các bài toán dạng tìm thành phần chưa biết của phép tính và giải đúng các bài toán có lời văn. Khi thực hiện các biện pháp trên tôi thấy các em có chuyển biến rất nhiều. Và qua kiểm nghiệm cả hai năm học qua những đối tượng học sinh tiếp thu chậm từng bước có tiến bộ. IV. Hiệu quả đạt được * Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến. + Trước khi áp dụng sáng kiến. Trước khi áp dụng sáng kiến, tình trạng học sinh không nắm vững kiến thức về toán có lời văncòn rất nhiều. Cácem không biết thực hiện các bước giải cũng như thực hiện phép tính còn sai cũng như đặt lời giải chưa chính xác. + Sau khi áp dụng sáng kiến. Sau khi áp dụng các biện pháp này vào thực tiễn dạy học. Tôi đã thu được kết quả rất khả quan. Học sinh hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng tạo. Với cách dạy cộng trừ nhẩm lồng vào từng bài học phần cộng trừ có nhớ , học sinh hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng tạo. Sau khi các biện pháp được áp dụng, tôi và các đồng nghiệp đều nhận thấy các em có sự chuyển biến rõ rệt. Các em không còn mắc những lỗi như trước, thay vào đó, các em biết đặt tính rõ ràng, không còn nhầm lẫn nữa nên các kết quả tính được có tính chính xác cao. Việc giải toán có lời văn cũng trở nên dễ dàng và gần gũi với các em hơn. SKKN Trang 11 https://giaoanpowerpoint.net/

  12. Các em không còn tâm lí và sợ sệt khi làm toán đố nữa. Đối với các dạng toán cộng, trừ có nhớ, tìm Xcác em cũng tự tin hơn, mạnh dạn phát biểu và tích cực họctập, góp phần nâng cao chất lượng môn toán của khối 2 trong trường nói riêng và của các đơn vị bạn cùng áp dụng nói chung. Học sinh có thói quen lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, tạo điều kiện phát triển tư duy, năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng.Đó là một thành công bước đầu khi áp dụng phương pháp này của bản thân ... Qua quá trình phối hợp thực hiện tại lớp. Kết quả đạt được tăng lên rõ rệt theo từng năm cụ thể như sau: Kết quả Thời gian kiểm tra Tổng số học sinh 9-10 7-8 5-6 Dưới 5 SL 0 0 SL 11 10 % 39.3 41.6 SL 10 8 % 35.7 33.3 SL 7 6 % 25 25 % 2017-2018 2018-2019 28 24 +Lợi ích thu được khi sáng kiến áp dụng: Sau khi áp dụng sáng kiến, chúng tôi nhận thấy rằng đây là những biện pháp thiết thực và mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học môn toán. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Hầu hết các em đều nhận dạng được các dạng toán và nắm được cách thực hiện. Các em trở nên mạnh dạn và tự tin vào bản thân hơn, không còn rụt rè và lo sợ về môn toán như các học sinh ở những năm trước. Tỉ lệ học sinh hoàn thành môn toán ngày càng cao, có lúc đạt trên 80%. Đó là tín hiệu đáng mừng, vì vậy trong những năm học tới đây, tôi và các bạn đồng nghiệp sẽ tiếp tục áp dụng và suy nghĩ ra nhiều biện pháp mới hơn, giúp các em hoc tốt môn toán 2, đáp ứng được mục tiêu giáo dục của môn toán lớp 2 đã đề ra.Những điểm mới dễ nhận thấy sau khi áp dụng sáng kiến là: * Đối với học sinh: - Giờ học sôi nổi hơn. - Học sinh say mê môn học, tiếp thu bài một cách chủ động, sáng tạo và phát huy được tính tích cực của học sinh. - Học sinh nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào thực hành. - Đặc biệt chất lượng của lớp được nâng lên rõ rệt. *Đối với giáo viên: - Giáo viên tự tin hơn trong khi dạy. - Biết cách khai thác bài nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. - Ngôn ngữ của giáo viên được trau chuốt hơn, thể hiện được trọng tâm của bài dạy. - Vận dụng các hình thức và phương pháp dạy học linh hoạt hơn. V. Mức độ ảnh hưởng Từ khi vận dụng sáng kiến này,tôi nhận thấy học sinh dễ hiểu bài hơn, dễ áp dụng hơn.Các em học tập tốthơn nhiều, nhờ vậy việc tiếp thu kiến thức cũng tốt hơn so với trước đây. Điều mà tôi cảm thấy vui nhất đó là các em rất mong thầy đến lớp và SKKN Trang 12 https://giaoanpowerpoint.net/

  13. rất yêu quí thầy giáo của mình. Đây là điều mà bất kì một giáo viên nào cũng luôn luôn mong ước. Đối với môn Toán lớp 2 thì các biện pháp đã nêu trên là hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên đứng lớp. Vì vậy, những giải pháp trên đã được tôi,các đồng nghiệp khác trong và ngoài đơn vị của Thị xã Tân Châu áp dụng ngày càng rộng rãi thông qua những cuộc họp và những lần nói chuyện trao đổi về chuyên môn. Không những vậy, bạn bè đồng nghiệp ở các huyện, thị trong tỉnh cũng cùng tôi chia sẻ, áp dụng rất nhiều. Hầu hết tất cả đều thấy được tính khả thi của sáng kiến trên và cần áp dụng trong thực tế giảngdạy. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm của bản thân tôi nhận thấy rằng, muốn vận dụng tốt và đạt được hiệu quả cao từ các giải pháp trên thì đòi hỏi ở giáo viên trực tiếp giảng dạy rất nhiều. Cần phải kiên trì và tận tụy, theo dõi và uốn nắn các emkịp thời. Dù có khó khăn đến đâu, các em có bị hỏng kiến thức như thế nào người giáo viên cũng không được nản lòng, phải thật sự quyết tâm mới có thể giúp đỡ các em, không được nóng vội vì các em còn nhỏ, cần được uốn nắn và giáo dục hàng ngày, hàng giờ chứ không phải một thời gian ngắn là được. Nếu thực hiện được các yêu cầu trên, tôi tin chắc rằng chất lượng dạy học môn toán lớp 2 nói chung và toán cộng, trừ có nhớ, tìm X, toán có lời vănnói riêng sẽ ngày càng được nâng cao. Là một giáo viên phụ trách giảng dạy, tôi thiết nghĩ không có niềm vui nào bằng niềm vui khi thấy học sinh của mình học tập tiến bộ hằng ngày. Một giờ dạy tốt không thể là một giờ dạy mà giáo viên cứ thao thao diễn xuất như một diễn viên mặc cho người học muốn thưởng thức làm sao thì làm. Phải dạy làm sao cho học sinh cảm thấy háo hức và phát huy hết khả năng học tập của các em.Ý thức được tầm quan trọng của giờ học toán hoàn cảnh nào tôi cũng không ngừng học tập phấn đấu vươn lên vì thế hệ trẻ, để có một giờ dạy tốthơn nhiều. Qua kết quả học tập của học sinh lớp 2, các đồng nghiệp trong khối cũng nhận thấy cách hướng dẫn trên là hay và có hiệu quả. *Đối Với bản thân - Người giáo viên khi đứng lớp phải thân thiện, gần gũi, kiên trì, yêu thương học sinh. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra,…từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc để kịp thời đưa ra các giải pháp sao cho phù hợp với học sinh lớp mình. - Cần phối hợp cùng với gia đình trong việc kiểm tra, đôn đốc quá trình học của các em. - Luôn động viên, khuyến khích các em khi các em có tiến bộ trong quá trình học. - Đối với giáo viên, phải “có tâm, có tầm”, phải tích cực chủ động tự học, tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề qua sách tham khảo, báo chí, qua đồng nghiệp; phải nhiệt tình, có trách nhiệm cao, có tính kiên trì, hết lòng hết mực thương yêu, giúp đỡ học sinh. Với lòng yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm, tôi tin rằng tất cả đội ngũ của chúng ta sẽ làm được và sẽ hoàn thành nhiệm vụ giáo dục của địa phương. Như vậy, chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. * Đối với tổ khối: SKKN Trang 13 https://giaoanpowerpoint.net/

  14. Có thể áp dụng bước đầu trong khối lớp 2 và có thể nhân rộng ra ở các khối lớp khác đặc biệt là khối 3. - Đối với nhà trường, lãnh đạo cần tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đáp ứng yêu cầu thực tế giảng dạy; quan tâm kiểm tra, giúp đỡ đội ngũ giáo viên khắc phục khó khăn, để từng bước nâng cao tay nghề, dạy học ngày càng có chất lượng tốt hơn. Ngoài ra, lãnh đạo nhà trường cần tăng cường phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh, tác động đến từng cha mẹ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, giúp họ có ý thức quan tâm việc tự học ở nhà của các em. VI. Kết luận chung - Những kết quả mà chúng tôi đã thu được trong quá trình nghiên cứu không phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bậc tiểu học, song lại là cái mới đối với tổ khối 2. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã phát hiện và rút ra nhiều điều lý thú về nội dung và phương pháp dạy học môn toán 2. Chúng tôi cảm thấy mình được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì, nhẫn nại, sự ham muốn, say xưa với việc giảng dạy… - Qua cách dạy đã nêu trên đây, so với các lớp học theo chỉ dẫn của sách giáo khoa và sách giáo viên, tôi nhận thấy học sinh dễ hiểu bài hơn, dễ áp dụng hơn. Qua kết quả học tập của học sinh lớp 2, các đồng nghiệp trong khối cũng nhận thấy cách hướng dẫn trên là hay và có hiệu quả. - Từ khi vận dụng sáng kiến này, tôi đã giúp được học sinh lớp 2 khắc phục tốt tình trạng ở bên lề lớp học,vì không hiểu bài.Từ đó, các em làm bài tốt hơn và rất tự tinh khi đến lớp. - Nếu tính khả thi cao có thể áp dụng trong cụm chuyên môn bằng hình thức báo cáo chuyên đề, thao giảng … để chúng tôi cùng với các anh chị đồng nghiệp ở các trường bạn rút kinh nghiệm, giúp đề tài ngày càng hoàn thiện hơn, tính khả thi ngày càng được nâng cao hơn. - Với các biện pháp trình bày ở trên, tôi nghĩ chúng ta sẽ giúp cho các em học sinh học hay quên, tự tin hơn, biết cách để làm bài. Các em sẽ ham học hơn và hạn chế được hiện tượng thiếu trung thực trong học tập, tránh được lên lớp non. Giáo viên, nhà trường, ngành sẽ giải được một bài toán khó về chất lượng dạy học. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi rút ra được trong quá trình dạy học. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện do những yếu tố khách quan và khả năng lí luận có hạn, thời gian lại eo hẹp. Bởi vậy đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được đón nhận các ý kiến đóng góp của quý thầy cô và lãnh đạo, để tôi được học tập thêm kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả giảng dạy. Xin chân thành cảm ơn! Tôi cam đoan những nội dung báo cáo trên là đúng sự thật Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiến Liêu Đức Trí SKKN Trang 14 https://giaoanpowerpoint.net/

More Related