1 / 19

Một số biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt môn Luyện từ và câu Lớp 4

Giu00e1o viu00ean tu1ed5 chu1ee9c hu01b0u1edbng du1eabn hu1ecdc sinh huy u0111u1ed9ng vu1ed1n hiu1ec3u biu1ebft vu00e0 kinh nghiu1ec7m cu1ee7a bu1ea3n thu00e2n u0111u1ec3 hu1ecdc sinh chiu1ebfm lu0129nh tri thu1ee9c ru1ed3i vu1eadn du1ee5ng cu00e1c tri thu1ee9c u0111u00f3 vu00e0o thu1ef1c hu00e0nh. Tu1ea1o cho hu1ecdc sinh thu00f3i quen tu1ef1 giu00e1c, chu1ee7 u0111u1ed9ng, khu00f4ng ru1eadp khuu00f4n mu00e1y mu00f3c, biu1ebft tu1ef1 u0111u00e1nh giu00e1 ku1ebft quu1ea3 cu1ee7a mu00ecnh, cu1ee7a bu1ea1n. u0110u1eb7c biu1ec7t lu00e0 giu00fap hu1ecdc sinh cu00f3 niu1ec1m tin, niu1ec1m vui trong hu1ecdc tu1eadp. u0110u1ed3ng thu1eddi tu1ea1o u0111iu1ec1u kiu1ec7n u0111u1ec3 hu1ecdc sinh phu00e1t huy nu0103ng lu1ef1c su1edf tru01b0u1eddng cu1ee7a mu00ecnh, biu1ebft u00e1p du1ee5ng kiu1ebfn thu1ee9c mu1edbi trong bu00e0i hu1ecdc vu00e0o thu1ef1c tu1ebf cuu1ed9c su1ed1ng hu00e0ng ngu00e0y.

Download Presentation

Một số biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt môn Luyện từ và câu Lớp 4

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. PHÒNG GD & ĐT TÂN CHÂU TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN --------------------------- ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN Một số biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt môn Luyện từ và câu lớp 4 . ( Thuộc lĩnh vực : Chuyên môn) Người viết :NGUYỄN VĂN MỚI Chức vụ hiện nay: Giáo viên Tổng phụ trách Đội Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An Số điện thoại : 0994999895 NĂM HỌC 2018 - 2019 1 https://tieuhoc.net/

  2. MỤC LỤC Trang * Bìa 1 * Mục lục 2 * Phiếu đăng kí sáng kiến 3 BÁO CÁO SÁNG KIẾN Một số biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt môn Luyện từ và câu lớp 4 I . Sơ yếu lý lịch tác giả: 4 II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: 4 Thuận lợi: 4 Khó khăn: 4 III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến : 5 1.Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến : 5 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến : 6 3. Nội dung sáng kiến : 6 3.1. Tiến trình thực hiện : 6 3.2. Thời gian thực hiện : 7 3.3. Biện pháp tổ chức : 7-14 IV. Hiệu quảđạt được : 14 1. Trước khi áp dụng sáng kiến 14 2. Sau khi áp dụng sáng kiến 3. Lợi ích thu được từ khi áp dụng sáng kiến V. Mức độảnh hưởng : 16 1. Khảnăng áp dụng giải pháp 16-17 2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp 17 VI. Kết luận: 17-19 14-15 15-16 2 https://tieuhoc.net/

  3. Phụ lục 1 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc PHIẾU ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN 1. Họ và tên người đăng ký:Nguyễn Văn Mới 2. Chức vụ:Giáo viên 3. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An. 4. Nhiệm vụ được giao trong đơn vị:Giáo viên Tổng phụ trách Đội. 5. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyên từ và câu lớp 4. 6. Lĩnh vực: Chuyên môn 7. Tóm tắt nội dung sáng kiến: - Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân để học sinh chiếm lĩnh tri thức rồi vận dụng các tri thức đó vào thực hành. Tạo cho học sinh thói quen tự giác, chủ động, không rập khuôn máy móc, biết tự đánh giá kết quả của mình, của bạn. Đặc biệt là giúp học sinh có niềm tin, niềm vui trong học tập. Đồng thời tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực sở trường của mình, biết áp dụng kiến thức mới trong bài học vào thực tế cuộc sống hàng ngày. 8. Thời gian, địa điểm, công việc áp dụng sáng kiến: - Tôi đã nghiên cứu phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 từ năm học 2017-2018 và đã rút ra được một số biện pháp và phương pháp hay để áp dụng cho lớp mình dạy thấy đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy tôi mạnh dạn đăng kí viết đề tài:"Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4” 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Đểđạt được kết quả cao trong giảng dạy, mỗi giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề nghiệp, đi sâu vào tìm hiểu nội dung chương trình, áp dụng phương pháp mới trong giảng dạy, đầu tư thiết kế bài soạn để giờ học diễn ra nhẹ nhàng, có hiệu quả. Đi sâu vào tìm hiểu tâm lí học sinh, quan tâm đến mọi đối tượng, tạo điều kiện cho các em thuận lợi trong việc tiếp thu kiến thức. Mỗi giáo viên cũng cần thường xuyên học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật những thông tin hàng ngày, nắm bắt những kiến thức mới liên hệ thực tế phù hợp với bài dạy, góp phần giáo dục thế hệ trẻnăng động – những chủnhân tương lai của đất nước. - Ngoài ra, còn phải kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình thường xuyên. Giáo viên khuyến khích, động viên các em tự hình thành cho mình có thói quen tích cực học tập. Qua đó các em hiểu được khắc phục những mặt chưa đạt và tự sửa chữa những khuyết điểm của mình thành thói quen có tính cẩn thận hơn, tích cực hơn. 10. Đơn vị áp dụngsáng kiến: Trường Tiểu học B Long An 11. Kết quả đạt được: - Qua thời gian thực hiện các biện pháp trên, tôi nhận thấy học sinh đã có ý thức học tập tốt phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4. Tính tích cực của các em được nâng cao dần lên, thói quen tự học của các em ngày càng được bộc lộ, các em thích học môn Luyện từvà câu cũng như các môn học khác. Các em cảm thấy việc học không còn khó và lúng túng nữa. Cụ thể qua các tiết học trên lớp, bài kiểm tra và qua các kì thi học sinh đều đạt điểm cao. Trong lớp có nhiều học sinh làm bài tập rất tốt, từ bài tập làm miệng đến bài tập làm viết cả lớp đều làm được. Vì vậy mà kết quả kiểm tra cuối năm môn Luyện từ và câu qua các năm học tăng dần. Do đó, kéo theo điểm kiểm tra môn Tiếng Việt cũng được nâng dần lên. Long An, ngày 20 tháng 10 năm 2018 PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦNGHĨA VIỆT NAM Tác giả 3 https://tieuhoc.net/

  4. TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc _______________ _______________________ Long An, ngày 24 thang 11 năm 2018 BÁO CÁO Một số biện pháp nhằm giúp học tốt môn Luyện từ và câu lớp 4 ____________________________ I. Sơ lược lý lịch tác giả: - Họ và tên: Nguyễn Văn Mới Nam - Ngày, tháng, năm sinh: 24-04-1971 - Nơi thường trú: Ấp Hòa Thạnh, xã Tân Thạnh, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. - Đơn vịcông tác: Trường Tiểu học B Long An - Chức vụ hiện nay: Giáo viên Tổng phụtrach Đội - Trình độchuyên môn: Đại học - Lĩnh vực công tác: Giáo viên tiểu học. II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị : - Long An là một xã nông thôn mới, diện tich đất hẹp, dân số tập trung ven sông, mật độ đông nhất ở ấp Long Hiệp. Người dân sinh sống chủ yếu nghề nông nghiệp. Phần đông khác đi làm ở các thành phố lớn thường xuyên phải xa nhà, học sinh cũng thường xuyên theo cha mẹ nên phải bỏ học gây ảnh hưởng đến việc duy trì sĩ số. - Toàn xã có bốn ấp được bốtrí hai trường tiểu học và một trường Trung học cơ sở nằm dọc bờ kênh Xáng. Tröôøng Tiểu học B Long An nằm trên địa bàn ấp Long Hòa có lượng học sinh chủ yếu từđịa bàn 2 ấp: Ấp Long Hòa và ấp Tân Hậu B2, xã Long An. Trường thuộc địa bàn xã nông thôn mới nên được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất với đầy đủ phòng học và phòng chức năng, trường khá khang trang, hiện đại, trường vừa được công nhận trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ 1. 1.Thuận lợi : - Được sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương, Ngành, Ban giám hiệu, các mạnh thường quân và cha mẹ học sinh để các em đến được trường học tập, vui chơi. - Tập thể hội đồng nhà trường đoàn kết, giáo viên giảng dạy phần lớn trên chuẩn, được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên, mạnh dạnđổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá góp phần nâng chất giáo dục. - Hội phụ huynh học sinh quan tâm hỗ trợ nhà trường nhiều mặt, có lòng tin đối với nhiều phụ huynh tạo nhịp cầu nối giữa nhà trường với gia đình tương đối tốt. Học sinh ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ được giáo dục đạo đức tốt, có mặt bằng kiến thức đồng đều và tinh thần học tập tích cực. 2. Khó khăn : - Có đầy đủ các phòng chức năng nhưng trang thiết bị của nhà trường còn thiếu nhiều loại, nhất là tranh ảnh, đồ dùng học tập dùng cho giáo viên . - Một bộ phận người dân đi làm ăn xa, đi làm theo vụ mùa nêncon cái để lại cho ông bà nuôi, vì vậyviệc dạy học ở nhà cho con cháu họ rất hạn chế. Mặt khác gây ảnh hưởng đến việc duy trì sĩ số,chất lượng giáo dục... - Tên sáng kiến:Một số biện pháp nhằm giúp học tốt môn Luyện từ và câu lớp 4. - Lĩnh vực: Chuyên môn III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến : 4 https://tieuhoc.net/

  5. 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến : * Đối với giáo viên: - Những năm gần đây, do ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Phong trào đổi mới phương pháp dạy học đã được phát động rộng rãi trong các trường Tiểu học. Vận dụng phương pháp theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học đã đóng góp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tuy nhiên, việc dạy phân môn luyện từ và câu không ít giáo viên vẫn chưa thoát khỏi quỹđạo của phương pháp dạy học truyền thống. Một số giáo viên vẫn coi học sinh Tiểu học là đối tượng nói theo, làm theo khuôn mẫu. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 cũ tách từ ngữ, ngữ pháp thành hai phân môn riêng biệt. Sách giáo khoa Tiếng Việt mới tích hợp từ ngữ, ngữ pháp thành phân môn Luyện từ và câu. Do đó việc tiếp cận phương pháp dạy học phù hợp với sách giáo khoa mới phần nào còn khó khăn. - Chính vì vậy cần cải tiến phương pháp dạy học Luyện từ và câu theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học để giờ học sinh động, hấp dẫn, hiệu quả. Là một giáo viên trực tiếp dạy lớp 4, khi nghiên cứu vềphương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu. Tôi đã thấy được mục đích, yêu cầu của một đơn vị kiến thức mà học sinh được chiếm lĩnh thuộc hệ thống vấn đề nào trong bài giảng. Mặt khác tôi biết cách phối hợp nhịp nhàng, khoa học và logic giữa kiến thức về từ và câu. -Với đặc thù của phân môn Luyện từ và câu là trang bị những kiến thức cơ bản về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để các em học tốt các môn học khác. Bởi vậy, việc bồi dưỡng và nâng cao hiểu biết về từ, câu, kĩ năng sử dụng tiếng Việt văn hoá góp phần kích thích sự phát triển tư duy, hoàn thiện nhân cách cho học sinh. * Đối với học sinh: - Phải nói rằng việc nắm kiến thức từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt của học sinh lớp 4 mà tôi trực tiếp giảng dạy đầu năm học còn rất yếu. Các em chưa hiểu nghĩa của từ, cấu tạo từ, vốn từ của các em còn nghèo, không diễn đạt một cách trôi chảy những cảm nhận của mình. Nên các em dùng từ còn sai, khi nói, viết chưa trọn câu. Câu văn các em đặt chưa đạt yêu cầu. Song một điều kiện thuận lợi là các em được trang bịđầy đủsách giáo khoa, đồ dùng học tập, cùng với sự tận tình của giáo viên các em thích tìm hiểu, khám phá kiến thức về tiếng mẹđẻ. - Từ những băn khoăn trên, ngay từđầu năm tôi đã tiến hành khảo sát nắm tình hình lớp học, kiến thức môn Tiếng Việt (nhất là phân môn Luyện từ và câu) của từng học sinh để có kế hoạch giảng dạy phù hợp, Qua khảo sát tôi nhận thấy: Năm học học sinh chậm SL TL% SL 2016- 2017 2017- 2018 Từđó, tôi nhận thấy việc giúp các em hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt là rất quan trọng. Các em nắm chắc kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để học tốt các phân môn tiếng Việt và các môn học khác, là cơ sở, nền tảng cho việc học tập các bậc học trên. Tổng số Thực hiện hoàn chỉnh Nói, viết đạt yêu cầu nhưng Viết câu chưa rõ ý Chưa biết đặt câu TL% 43,75 SL 7 TL% 21,87 SL 2 TL% 6,25 9 28,13 14 32 8 33,33 9 37,5 6 25,00 1 4,17 24 5 https://tieuhoc.net/

  6. 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến: - Qua thực tế giảng dạy, dự giờđồng nghiệp tôi thấy nhiều giáo viên đã gặp phải không ít những khó khăn trong việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu, hoặc hướng dẫn mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh khắc sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh hiểu và làm tốt các bài tập Luyện từ và câu là vấn đềtrăn trở cho các giáo viên và ngay cả bản thân tôi. - Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từvà câu. Đặc biệt các khái niệm về từđơn, từ ghép, các kiểu từ ghép,... bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phân môn này trong sách giáo khoa cung cấp lượng kiến thức rất ít, không đủđể học sinh khắc sâu. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, không hiểu dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào tiết dạy này. - Luyện từ và câu là một phân môn của môn Tiếng Việt, thông qua phân môn này, học sinh được rèn luyện về khảnăng dùng từchính xác, đúng chính tả. Phân môn Luyện từ và câu vận dụng những hiểu biết vềkĩ năng tiếng Việt do phân môn khác mang lại, rèn luyện hoặc cung cấp, đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Đểlàm được bài tập Luyện từ và câu 4, học sinh phải hoàn thiện bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt vào quá trình viết bài. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức được học sinh hoàn thiện và nâng cao dần. Một trong những nội dung quan trọng của việc rèn kĩ năng Tiếng Việt ở Tiểu học là giúp học sinh biết sử dụng từ một cách phù hợp trong các bài viết, đặc biệt trong phân môn Luyện từ và câu. Dùng từđúng và phù hợp với nội dung văn cảnh, giúp các em thể hiện ý văn sáng sủa, rõ ràng, mặt khác giúp người đọc hiểu nội dung bài văn, câu văn một cách rõ ràng, chính xác. Trong quá trình giảng dạy tại trường, qua việc trực tiếp hướng dẫn học sinh làm các bài tập môn học, tôi thấy để giúp các em sử dụng từ ngữđúng nghĩa, sử dụng từ giàu hình ảnh, nhận biết được bố cục một câu văn, một đoạn văn rất quan trọng của người giáo viên. Xuất phát từ những lí do vừa nêu trên với mong muốn giúp học sinh mình học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng và dạy học môn Tiếng Việt ởtrường nói chung nên tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm giúp học tốt môn Luyện từ và câu lớp 4” 3. Nội dung sáng kiến: 3.1. Tiến trình thực hiện: - Thông thường dạy phân môn Luyện từ và câu, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt động học tập để phát triển năng lực cá nhân. Hay nói cách khác giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân để chiếm lĩnh tri thức rồi vận dụng các tri thức đó vào thực hành. Từđó tạo cho học sinh thói quen tự giác, chủđộng, không rập khuôn máy móc, biết tựđánh giá kết quả của mình, của bạn. Đặc biệt là giúp học sinh có niềm tin, niềm vui trong học tập. Đồng thời tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực sởtrường của mình, biết áp dụng kiến thức mới trong bài học vào thực tế cuộc sống hàng ngày. - Để nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4, trước hết giáo viên phải làm cho học sinh thấy rõ tiếng Việt rất lý thú và bổ ích. Phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh hiểu được sựphong phú cái hay, cái đẹp của tiếng Việt, nâng cao cảm thụ thẫm mĩ. Với vai trò quan trọng như vậy, bản thân tôi trong quá trình làm đềtài cũng có nhiều trăn trở, tìm tòi để làm sao tìm được phương pháp tối ưu nhất để nâng cao hiệu quả dạy học Luyện từ và câu ở lớp 6 https://tieuhoc.net/

  7. 4. Đây còn là vấn đề bức thiết đểđáp ứng nhu cầu học tập cho mỗi học sinh ngay từ bậc học đầu tiên, giáo viên phải trang bị cho các em vốn từphong phú, chính xác đểgiúp các em đi vào cuộc sống, tạo cho các em thói quen biết sử dụng tiếng Việt có văn hóa.Đểlàm được điều này, trong quá trình dạy học giáo viên cần chú ý hướng dẫn cụ thể từng loại bài tập rõ ràng và phân hóa học sinh một cách hợp lí, linh hoạt đối với từng loại bài tập cụ thểnhư sau: + Đối với bài tập làm cá nhân: Đây là những bài tập yêu cầu một cách cụ thểnhư trả lời câu hỏi, nêu ý kiến, nhận xét yêu cầu về kiến thức không khó … Giáo viên nên cho những học sinh học hoàn thành được trình bày trước để các bạn có cơ hội bổ sung, sửa chữa. + Đối với bài tập làm theo nhóm: Là những bài tập tương đối trừu tượng hoặc có tính khái quát. Bài tập phải giải quyết nhiều đơn vị kiến thức, đòi hỏi có sự thảo luận, trao đổi, bàn bạc để có câu trả lời… nên dành cho học sinh hoàn thành tốt. + Đối với bài tập làm việc cả lớp: Là các dạng bài tập không cần phải suy nghĩ lâu mới trả lời. Giáo viên cần quan tâm đến các đối tượng học sinh (nhất là học sinh chưa hoàn thành). + Đối với trò chơi học tập: Là một hình thức học tập nhằm củng cố kiến thức cho học sinh, để làm cho lớp học sinh động và giảm mệt mỏi. Tuy nhiên, không phải bài tập nào cũng có thể tổ chức trò chơi học tập. Khi tổ chức trò chơi học tập, giáo viên nên chọn những bài tập có nhiều đơn vị kiến thức đểhuy động nhiều em tham gia, tránh tổ chức trò chơi học tập nhưng thực tế chỉđược một nhóm hoặc một sốem chơi khiến cho những học sinh khác không có cơ hội hoạt động. 3.2. Thời gian thực hiện: - Trong những năm đầu dạy học tôi thấy học sinh rất nhút nhát, rụt rè không dám nói, hoặc nói chưa tròn câu,… Từđó, tôi đã nghĩ đến giải pháp giúp các em mạnh dạn giao tiếp, nói năn rành mạch rõ câu chữ. Nên từnăm học 2016-2017 tôi chọn phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 để nghiên cứu. Đến năm học 2017-2018 tôi được biệt phái đến trường Tiểu học A Long An giảng dạy. Tại đây tôi được phân công dạy lớp 4D nên đã áp dụng vào giảng dạy thấy đạt hiệu quả cao. 3.3. Biện pháp tổ chức 3.3.a. Để thực hiện tốt các biện pháp, chúng ta cần nghiên cứu kĩ nội dung, chương trình, yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 như: 3.3.a.1. Nội dung chương trình gồm 62 tiết được phân như sau: - Học kì I có 32 tiết gồm 5 chủđiểm. Học kì II có 30 tiết gồm 5 chủđiểm. Mỗi chủđiểm học sinh được học một chủđềtương ứng với từng chủđiểm đó. Mỗi tuần có 2 tiết. 3.3.a.2. Yêu cầu về kiến thức: a) Mở rộng hệ thống hóa vốn từ: - Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 có 10 chủđiểm về mở rộng và hệ thống hóa vốn từ. b) Trang bị các kiến thức giảng dạy về từ và câu: - Cấu tạo từ: Từđơn, từ ghép và từ láy. - Từ loại: Danh từ, động từ, tính từ. - Các kiểu câu: Câu hỏi, câu kể, câu cầu khiến, câu cảm. - Các dấu câu: Dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn. 3.3.a.3. Yêu cầu kĩ năng về từ và câu: a) Từ: - Nhận biết được cấu tạo của tiếng. - Giải các câu đố tiếng liên quan đến cấu tạo của tiếng. - Nhận biết từ loại. 7 https://tieuhoc.net/

  8. - Đặt câu với từđã cho. - Xác định tình huống sử dụng Thành ngữ - Tục ngữ. b) Câu: - Nhận biết các kiểu câu. - Đặt câu theo mẫu. - Nhận biết các kiểu trạng ngữ. - Thêm trạng ngữ cho câu. - Tác dụng của dấu câu. - Điền dấu câu thích hợp. c) Dạy tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp: Thông qua nội dung dạy Luyện từ và câu ở lớp 4, bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen dùng từđúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa như: + Chữa lỗi dấu câu. + Lựa chọn kiểu câu kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần đạt được và cũng như là nhiệm vụmà người giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy phân môn này. 3.3.b. Các biện pháp thực hiện: 3.3.b.1. Nắm vững, phát huy những kiến thức và kĩ năng học sinh đã đạt được ở các lớp 1, 2, 3: Từ những kiến thức học sinh đã học qua được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm tuỳ theo ở mỗi lớp mà có những yêu cầu khác nhau. Tuy nhiên nếu các em nắm chắc những kiến thức ở lớp dưới thì lớp 4 các em sẽ nắm kiến thức dễ dàng hơn. Ví dụ: Ở lớp 1: Các em được học về âm - vần - học sinh tìm tiếng có vần từ có vần, nói câu chứa tiếng có vần vừa học thì lớp 4 các em sẽđược học kỹhơn về cấu tạo của tiếng: tiếng thường gồm có 3 bộ phận ''âm đầu - vần - thanh'' (có tiếng không có âm đầu). Hay chỉ là một khái niệm ''Câu hỏi và dấu chấm hỏi''. Ở lớp 2, học sinh mới chỉ cần đạt yêu cầu ''Chọn dấu chấm hay dấu hỏi đểđiền vào ô trống''. Ở lớp 3, các em phải đặt và trả lời câu hỏi. Nhưngđến lớp 4 thì không những phải hiểu khái niệm mà còn phải biết giữ lịch sự khi đặt câu hỏi tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Ví dụ: - Bạn có thích thả diều không? ... - Thưa thầy, thầy có thích mặc áo khoác không ạ? ... Qua ví dụ trên học sinh biết dùng câu hỏi vào mục đích khác, không chỉ dừng lại ở hỏi những điều muốn biết mà còn phải biết dùng câu hỏi để thể hiện: thái độ khen chê, khẳng định, phủđịnh, yêu cầu, mong muốn. Ví dụ: Câu hỏi thể hiện thái độ khen chê. - Con gái học mẫu giáo hôm qua mang về phiếu bé ngoan. Bố khen bé ''Sao bé ngoan thế nhỉ?'' - Em bé rất nghịch, bôi mực bẩn hết sách của chị. Chị tức quá kêu lên. ''Sao em hư thế nhỉ? Chị không chơi với em nữa?'' Ví dụ: Câu hỏi thể hiện yêu cầu, mong muốn. - Bà đang ngủtrưa, có hai đứa cháu chạy giỡn gần bà. Bà bảo: Đi chỗ khác chơiđể bà ngủđược không? Ví dụ: Câu hỏi thể hiện sự nhờ cậy, giúp đỡ. - Anh có thể xem giúp tôi mấy giờ có xe về Tân Châu không? 3.3.b.2. Xây dựng nề nếp cơ bản đầu năm: 8 https://tieuhoc.net/

  9. - Đầu năm học, giáo viên nắm bắt kịp thời các hoạt động học tập của học sinh như: phát biểu, hoạt động cá nhân, làm việc theo cặp, nhóm, các vốn từ và câu,… và sinh hoạt của học sinh để biết các em còn chưa đạt ởlĩnh vực nào. Từđó giáo viên có kế hoạch uốn nắn kịp thời và thường giáo dục cho học sinh, trong bất kì trường hợp nào, tiết học nào cần khen ngợi các em, khuyến khích các em biết tự học hỏi, biết thi đua, biết tích cực hoạt động nhóm, biết nhận xét kết quả của bạn, biết bổ sung thêm cho hoàn chỉnh, … 3.3.b.3. Lập kế hoạch bài học: - Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong sách giáo khoa và những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt. Tùy theo đặc điểm của từng lớp mà xây dựng kế hoạch bài giảng, phân hóa đối tượng học sinh cho phù hợp. Cho dù thếnào cũng cần có đầy đủ các hoạt động và tổ chức các hoạt động đó một cách phong phú, phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung của bài dạy và chủđiểm của bài đó. 3.3.b.4. Tài liệu, đồ dùng học tập: - Người giáo viên cần giúp học sinh biết cách lựa chọn và sử dụng các tài liệu, đồ dùng học tập như thế nào cho phù hợp. Tài liệu nào các em có thể sử dụng khi học trên lớp, khi học ở nhà, nguồn tài liệu nào phù hợp với các em hay khi nào có thể sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, sách tham khảo. Không chỉ sử dụng các thông tin có trong sách mà các em còn có thể tự tìm tòi, tự làm lấy để trởthành đồ dùng học tập hữu ích. Từđó, học sinh sẽ chủđộng khi sử dụng các loại tài liệu mà không còn phụ thuộc hay lệ thuộc vào sách tham khảo. Làm được điều này cũng đồng nghĩa với việc học sinh sử dụng các loại sách tham khảo có sẵn đáp án chỉ là một tài liệu giúp các em dùng để so sánh với kết quả bài làm của mình. 3.3.b.5. Phân bố thời gian học tập: - Ở mỗi tiết dạy, việc phân bố thời gian học tập cho học sinh một cách hợp lí cũng là một yếu tố quan trọng của sự thành công. Giáo viên phải biết phối kết hợp nhịp nhàng các hoạt động dạy học và phân chia thời gian của từng hoạt động đó phù hợp trong mỗi tiết học, mỗi bài học cụ thể. Cần tránh tình trạng hết tiết học mà không hết bài hoặc ngược lại tạo cơ hội cho học sinh không làm việc. Điều này cũng giúp ích cho học sinh trong việc tự phân bố thời gian học ở nhà hợp lí, mang lại hiệu quả. 3.3.b.6. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học: - Hiện nay việc cung cấp vốn từ cho học sinh không còn theo dạng học từ ngữnhư chương trình cũ mà mỗi bài học là những bài tập thực hành không những giúp các em tiếp nhận vốn từ mới mà còn định hướng cho các em thông qua các bài tập thực hành đó để mở rộng, bổ sung một số vốn từ mới, các thành ngữ, tục ngữ,… Việc đổi mới phương pháp dạy học giáo viên phải chủđộng hơn, linh hoạt hơn trong việc tổ chức cho học sinh học tập để gây sự hứng thú học tập của các em thì giờ học mới sinh động hơn. - Để nâng cao chất lượng dạy và học đối với phân môn Luyện từvà câu cũng như các môn học khác, tôi không ngừng đổi mới phương pháp dạy học và có nhiều biện pháp trong dạy học, cụ thểnhư sau: + Trước khi đến lớp, tôi nghiên cứu kĩ giáo án và chuẩn bịphương pháp giảng dạy cho từng bài: chú ý thực hiện dạy học dựa vào hoạt động học tập tích cực chủđộng, sáng tạo của học sinh. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học. + Chuẩn bịđầy đủ các thiết bị dạy học: thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học nếu thiếu thiết bị dạy học nào tôi sẽ tựlàm đồ dùng dạy học cho tiết đó, đem đủ vật mẫu để góp phần giúp học sinh thực hành tốt các bài tập. Tôi luôn chú ý sử dụng đồ dùng đúng yêu cầu, phù hợp với nội dung bài học, không sử dụng tràn lan, đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng và khoa học. 9 https://tieuhoc.net/

  10. + Tôi luôn giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập: bằng hệ thống câu hỏi, bằng lời giải thích gợi mởđể các em hiểu và nắm được đầy đủ các yêu cầu của từng bài tập. + Tôi yêu cầu học sinh khi làm bài tập: phải đọc kĩ yêu cầu của bài tập và xác định được bài tập yêu cầu gì? + Tôi luôn chú ý giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu. Đặc biệt cho các em luyện tập nhiều dạng bài tập (ở tiết luyện tập) nhằm mở rộng để các em hiểu được tính phong phú của tiếng Việt. + Khi học sinh làm bài tập ở bảng lớp, vào bảng con hoặc vào vở. Tôi đều tổ chức trao đổi, nhận xét kết quả bài của bạn theo lối phân hóa để quả rút ra những điểm ghi nhớ về tri thức. Sau đó tôi nhận xét, sửa sai và chốt lại kết quảđúng để các em biết mình đúng sai ởđiểm nào. - Sau khi áp dụng quy trình trên, kết quảđạt được rất khả quan: + Học sinh biết đọc kĩ yêu cầu của từng bài tập và bằng sựhướng dẫn của giáo viên, các em đã xác định được yêu cầu của từng bài tập có nhiều tiến bộ so với trước. + Học sinh đã được thực hành nhiều và đã có nhiều hình thức bài tập, các em đã mở rộng được vốn từ theo từng bài học, theo từng chủđiểm. + Các em đã hiểu biết về từ loại nên trình bày rõ ràng, dùng đúng từ, đặt và tạo lập câu đúng, có nhiều tiến bộ… - Trong nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy đa số giáo viên soạn bài và dạy còn bám sát sách giáo viên, xem sách giáo viên là chuẩn. Do vậy, giáo viên không dám thêm hoặc bớt ở một số hoạt động dạy học. Nhằm giúp giáo viên bớt phụ thuộc vào sách giáo viên, nên tôi mạnh dạn bổ sung kiến thức thực tế phù hợp với từng bài dạy để truyền đạt cho các em, mặt khác vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học mới cho một tiết dạy Luyện từvà câu đạt hiệu quả cao. Quy trình tiết dạy của hai loại bài được thông qua các bước sau: 1. Ổn định: Học sinh hát. 2. Kiểm tra bài cũ: - Học sinh nêu ngắn gọn những điều đã học ở tiết trước, cho ví dụ minh họa hoặc giải các bài tập củng cố, vận dụng kiến thức đã học. A. Đối với loại bài dạy lý thuyết: * Giới thiệu bài: - Giáo viên giới thiệu bằng nhiều cách khác nhau để gây hứng thú cho học sinh học tập hơn. - Giáo viên có thể giới thiệu bài gián tiếp, hay qua tranh ảnh rồi gợi ý cho học sinh khai thác tranh vào bài mới. Ví dụ: Tranh vẽ những gì ? Nội dung tranh ... - Giáo viên có thể giới thiệu trực tiếp vào bài học hoặc giới thiệu về mục tiêu bài học hay giới thiệu sơ lược bài học trước đểlàm động tác chuyển ý nêu tên bài học mới. - Nói chung có nhiều cách giới thiệu bài rất đa dạng, tùy theo từng bài học mà giáo viên giới thiệu sao cho phù hợp với bài để gây sự kích thích học sinh hứng thú học tập. * Hình thành khái niệm: - Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu bằng các phương pháp dạy học. - Ghi nhớ kiến thức: Cho học sinh đọc thầm rồi nhắc lại phần ghi nhớ trong sách giáo khoa. * Hướng dẫn luyện tập: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập thực hành. * Củng cố, dặn dò: - Đặt câu hỏi củng cố các kiến thức trọng tâm của bài. - Tuyên dương một số em học tốt, động viên khuyến khích một số em có tiến bộ trong học tập. 10 https://tieuhoc.net/

  11. - Dặn học sinh về nhà xem lại bài học, làm các bài tập đã học (bài tập, nội dung cần ghi nhớ thuộc lòng) và chuẩn bị bài sau. B. Đối với loại bài thực hành: - Giáo viên tổ chức, hướng dẫ học sinh thực hành theo nội dung, yêu cầu của bài. - Củng cố khắc sâu nội dung bài. 3.3.b.7. Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy: - Có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy. Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán đơnđiệu. Ví dụ: Khi dạy bài: Mở rộng vốn từ: Ước mơ Bài tập 4: Nêu ví dụ minh họa về một loại ước mơđược nói ở bài tập 3. Học sinh thảo luận nhóm 4 và tìm ví dụ minh họa cho những ước mơđó. - Ước mơđược đánh giá cao: Ước mơ học giỏi để trở thành bác sĩ,kĩsư, ... - Ước mơđược đánh giá không cao: Ước mơ có một món đồchơi, một đôi giày mới, ... - Ước mơ bịđánh giá thấp: Ước được xem ti vi suốt ngày, không cần học mà điểm vẫn cao, ... Người giáo viên biết cách vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi nổi, gây hứng thứ cho học sinh. 3.3.b.8. Phát huy tính tích cực của học sinh: - Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên cần chú ý đối với mọi đối tượng học sinh phân ra nhiều mức độ (hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành) để có phương pháp dạy thích hợp. Muốn phát huy được tính tích cực của học sinh thì người giáo viên phải có hệ thống câu hỏi trong mỗi bài thật cụ thể phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài: Câu kể Ai thế nào? Bài tập 1: Kể về các bạn trong tổ em, trong lời kể có sử dụng một số câu kể“Ai thế nào?”. Học sinh làm việc cá nhân. Tổ em là tổ 2. Các thành viên trong tổđều chăm ngoan, học tốt. Linh rất thông minh. Ngân hiền lành xinh xắn. Lâm láu cá nhưng rất tốt bụng. Mai thì lại chu đáonhưngười chị cả. - Cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học để cho các em được nói, được làm việc. 3.3.b.9. Phát huy ý thức học tập của học sinh từđó bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh qua các bài học: - Làm thế nào để tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật trong quá trình dạy học của người giáo viên. Tạo hứng thú cho học sinh trong học tập cũng chính là làm cho các em thấy hạnh phúc trong học tập, bởi vì học là hạnh phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại từ hạnh phúc còn nằm ngay trong chính sự học. Từđó mà các em nâng cao ý thức trong học tập. 3.3.b.10. Phối hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tích luỹ vốn hiểu biết, vốn từ ngữ cho học sinh: - Giáo viên phải biết phối kết hợp hoạt động ngoài giờ nhằm bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp. Cũngnhư các phân môn khác của môn Tiếng Việt một trong những nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt văn hoá. Để thực hiện nhiệm vụ không chỉ bó gọn trong việc tổ 11 https://tieuhoc.net/

  12. chức các hoạt động dạy và học trên lớp mà còn cả trong việc học tập của các môn học khác với các hoạt động trong và ngoài nhà trường nữa. - Với các phân môn của môn Tiếng Việt như Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện giúp học sinh rất nhiều trong việc mở rộng vốn từ, cách dùng từđểđặt câu khác nhau, từ phải gắn với câu, sắp xếp từ ý cho đúngvăn cảnh cụ thể. Ví dụ: Khi dạy bài: Câu hỏi và dấu chấm hỏi Bài tập 3: Em hãy đặt một câu hỏi để tự hỏi mình. Sau khi đã hình thành khái niệm và giải bài tập 1, 2 xong đến bài tập này đa số học sinh đặt được câu hỏi theo yêu cầu như: ➢Không biết mình để cây bút chì ởđâu? ... ➢Tại sao bài này mình lại quên cách làm được nhỉ? ... - Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp như các giờchơi, chào cờ, các cuộc toạđàm trao đổi học sinh sẽ tích luỹđược vốn từ cho mình. Ví dụ: Qua bài ''Mở rộng vốn từ: Đồchơi - Trò chơi'' các em cũng thấy được những trò chơi nào có lợi - Những trò chơi có hại, cần tránh. Thông qua các cuộc toạđàm trao đổi, các em biết đặt câu hỏi một cách lịch sử, tránh hỏi trống không hoặc những câu hỏi tò mò thiếu tế nhị. Biết giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị. - Qua đó cho thấy việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng rất lớn đến việc dạy phân môn luyện từ và câu giúp các em có thói quen dùng từđúng, nói viết thành câu, biết quý biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 3.3.b.11. Kèm cặp học sinh chưa hoàn thành: a) Về phía giáo viên: Với đối tượng là học sinh chưa hoàn thành cần giúp các em xác định được mạch kiến thức trong chương trình được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm, tùy theo mỗi lớp mà có những yêu cầu khác nhau. Từđó giúp học sinh chưa hoàn thành nắm chắc những kiến thức đã học ở lớp dưới, bổ sung những lỗ hỏng về kiến thức ở lớp dưới thì đến lớp 4 các em sẽ nắm kiến thức một cách dễ dàng hơn. b) Về phía gia đình: Giáo viên cần gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh em học chưa hoàn thành cùng phối kết hợp để giúp đỡ, kèm cặp các em. Một số cha mẹthường nêu lí do là bận công việc làm ăn nên coi nhẹ việc học ở nhà của con cái, không để ý đến việc con em mình học cái gì? học thế nào? Vì vậy nhiệm vụ học tập của học sinh không thể tách rời khỏi yếu tố gia đình bởi đây chính là động lực cơ bản thúc đẩy các em phấn đấu cho sự học của mình. Chúng ta thấy rõ hai học sinh, một em được gia đình quan tâm một em gia đinh không quan tâm thi kết quả học tập khác nhau như thế nào…. c) Về phía bạn bè: Giáo viên cũng cần tranh thủ sự trao đổi thông tin, học hỏi lẫn nhau giữa học sinh với học sinh. Giao cho học sinh hoàn thành tốt thường xuyên kèm cặp học sinh chưa hoàn thành, hưởng ứng thi đua"Đôi bạn cùng tiến", cùng nhau tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp như các giờchơi, giờ chào cờ, các cuộc tọa đàm, trao đổi, sinh hoạt, ... các em sẽ thấy hứng thú và tự giác tích lũyđược vốn từ, vốn kiến thức của mình. 3.3.b.12. Thường xuyên quan tâm giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành: - Thường trong một lớp có học sinh hoàn thành tốt, hoàn thành và chưa hoàn thành. Những học sinh chưa hoàn thành sẽ rất ngại khi nói, bởi đôi khi các em nói không đúng yêu cầu. Nên khi hướng dẫn thực hành bài tập giáo viên sẽ dành cho học sinh chưa hoàn thành nói trước những gì các em nghĩ được, tránh để học sinh hoàn thành tốt và học sinh hoàn thành nói trước, học sinh chưa hoàn thành sẽ mất tự tin, sợ giống ý kiến của bạn, sợ sai… Không phải học sinh chưa hoàn thành bao giờcũng nói không đúng. Vì vậy khi dạy phân môn Luyện từ và câu không khó khăn lắm khi giáo viên cho học sinh chưa hoàn thành được tham gia hoạt động. Giáo viên 12 https://tieuhoc.net/

  13. sẽ ít tốn thời gian hơn trong việc giữ trật tự lớp học bởi học sinh không làm việc sẽ nói chuyện riêng hoặc làm việc riêng. - Mỗi tiết dạy tôi luôn chú ý quan tâm đến các em học chưa hoàn thành và thường xuyên gọi các em tập phát biểu nhiều trong giờ, thường xuyên giúp đỡ các em gặp khó khăn trong giờ học để các em học tiến bộhơn. Từđó học sinh tựtin hơn, mạnh dạn hơn khi phát biểu. 3.3.c. Giáo viên cần linh hoạt phối hợp các biện pháp vừa nêu trên: Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy giáo dục và động viên học sinh tự rèn luyện học tập cho mình là rất cần thiết. Muốn học tốt phân môn Luyện từ và câu thì phải học tốt, nói đủ ý, viết đúng chính tả, … Vì vậy giáo viên cần phải phối hợp từ các yếu tốvà các phương pháp sau: 3.3.c.1. Hình thành, xây dựng nề nếp chung đầu năm: - Ngay đầu năm giáo viên giúp học sinh đọc trôi chảy bài tập đọc, giúp các em hiểu được nội dung và yêu cầu của bài tập, thường xuyên kiểm tra đối với các em còn chậm tiến nhằm kịp thời uốn nắn và hướng dẫn để các em mạnh dạn phát biểu xây dựng bài, từđó học tiến bộhơn. Biện pháp: kiểm tra học sinh thường xuyên, đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành. - Phải luyện thêm ở lớp, chịu khó tập đặt câu nhiều lần theo mẫu, rèn luyện thêm ở nhà (giáo viên thường xuyên kiểm tra học sinh, đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành). - Thường xuyên tự rèn luyện cho mình có thói quen hoạt động cho tốt, tập mạnh dạn phát biểu xây dựng bài, từđó học tập đạt hiệu quảcao hơn. 3.3.c.2. Phân loại học sinh đầu năm: - Qua khảo sát đầu năm, giáo viên theo dõi từng học sinh để biết được năng lực học tập của từng em. Từđó có kế hoạch phụđạo giúp đỡ các em hằng buổi, từng tiết học; bằng nhiều biện pháp động viên, khuyến khích các em học tập để nâng cao từng bước. 3.3.c.3. Gần gũi, tạo tình cảm với học sinh, đặt biệt là học sinh chậm tiến: - Thường xuyên gần gũi với các em, động viên, khuyến khích, khen ngợi các em học tập có tiến bộ, luôn quan tâm giúp đỡ học sinh chậm tiến bộ nhiều hơn. Từđó các em không thấy mặc cảm với bản thân và bạn bè trong lớp, các em sẽ phấn đấu, tích cực học môn Luyện từ và câu. 3.3.c.4. Kích thích tư duy học sinh học tập linh hoạt: - Thông qua việc học minh họa các tình huống có vấn đề giáo dục thích ứng với các em, chẳng hạn như qua các bài tập luyện từ và câu có tính giáo dục về thiên nhiên, về loài vật, đồ vật, … Chính vì thế, giáo viên cần phải giáo dục các em thường xuyên hằng ngày, để các em có thói quen thương yêu loài vật, biết bảo vệ loài vật, bảo vệ cây cối, biết yêu thiên nhiên.Từđó các em biết bảo vệmôi trường. 3.3.c.5. Hình thành nguyên tắc học cơ bản để học sinh nắm và vận dụng: - Do các em không nắm được cách học nên lưỡng lự không hiểu được bài dẫn đến các em lúng túng không làm được bài tập, từđó các em nhàm chán học môn Luyện từ và câu. Vì vậy giáo viên cần xác định yêu cầu của mỗi bài tập và mục tiêu của bài học nhằm kết hợp các kiến thức, kĩ năng trong tiết học và những kiến thức kĩ năng đã học trước đó, giúp các em hiểu và vận dụng kiến thức để làm bài tập một cách phù hợp. - Thực tế giảng dạy cho thấy, học sinh còn nhiều hạn chế. Ví dụ: Đặt câu chưa đủ từ hai vế trở lên hoặc chưa tìm được câu mới, … Đối với việc học và thực hành các kiến thức về vốn từ, nghĩa của từ, câu, … để học sinh tiếp thu và vận dụng tốt kiến thức, chúng ta cần phối hợp nhiều cách tổ chức cho học sinh thảo luận, sưu tầm, luyện tập, … Giáo viên theo dõi, gợi mở cho các em tìm tòi, suy nghĩ, … để có cái mới hơn thông qua hoạt động nhóm, hoạt động giao tiếp trong và ngoài lớp học. 3.3.c.6. Trao đổi và tác động đến phụ huynh: 13 https://tieuhoc.net/

  14. - Lần họp phụ huynh đầu năm, giáo viên chủ nhiệm thông qua tình hình học tập của lớp (thuận lợi và khó khăn) của từng học sinh về (học tập, đạo đức, nề nếp, …). Qua đó trao đổi giữa phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm thống nhất kiểm tra học sinh hàng ngày ở lớp và ở nhà, mỗi khi học sinh có dấu hiệu bất thường về học tập hoặc học sinh có chuyện đột xuất vì một lí do nào đó thì giữa giáo viên và phụ huynh kịp thời trao đổi qua lại để nắm được thông tin của học sinh. Ởgia đình nên tạo một góc học tập và phải thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc để các em học tốt hơn. IV- Hiệu quảđạt được : 1. Trước khi áp dụng sáng kiến: - Qua giảng dạy ở khối 4, tôi nhận thấy các đồng nghiệp trong tổ khối chúng tôi còn nhiều hạn chế trong việc phát huy tiềm ẩn trong mỗi học sinh. Ít quan tâm tới việc khắc phục yếu kém cho học sinh trong môn Tiếng Việt nói chung và việc giải các bài tập ở phân môn Luyện từvà câu nói riêng. Để khắc phục vấn đề này, chúng ta cần thay đổi cách dạy học truyền thống bằng phương pháp dạy học mới theo hướng thầy thiết kế, thầy chỉ giữ vai trò tổ chức, điều khiển và hướng dẫn học sinh tìm ra cách giải bài tập. - Từ việc dạy học theo kiểu áp đặt (cách dạy học truyền thống) của thầy mà học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụđộng, các qui tắc, các công thức, … mà thầy đưa ra học sinh có nhiệm vụ phải ghi nhớ. Chính vì vậy học sinh nắm kiến thức không vững, không sâu, không hiểu được bản chất của vấn đề, chỉ biết áp dụng rập khuôn, máy móc. Do đó những bài có cấu trúc hơi khác đi một chút là học sinh không làm được hoặc làm sai. Mặt khác kiến thức do thầy áp đặt không phải do học sinh chiếm lĩnh nên rất chóng quên. - Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy còn nhiều hạn chếnhư khi dạy phân môn Luyện từ và câu chỉ biết truyền thụ cho học sinh những kiến thức mới và giải các bài tập trong sách giáo khoa là coi như đạt yêu cầu đề ra. Bên cạnh đó, bản thân chưa rút ra được các qui tắc ứng với từng dạng bài tập. Chính vì vậy mà học sinh không khắc sâu được kiến thức, chóng quên và đến lúc kiểm tra định kì gặp các dạng bài tập này, các em không nhớ cách giải. 2. Sau khi áp dụng sáng kiến: - Qua hai năm học thực hiện các biện pháp trên, tôi nhận thấy học sinh đã có ý thức học tập tốt phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4. Tính tích cực của các em được nâng cao dần lên, thói quen tự học của các em ngày càng được bộc lộ, các em thích học môn Luyện từvà câu cũng như các môn học khác. Các em cảm thấy việc học không còn khó và lúng túng nữa. Mặt khác, Sau khi thực hiện đổi mới phương pháp vào giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4. Tôi thấy kết quảđạt được như sau: + Học sinh nắm chắc hơn về từ, mở rộng được vốn từ. + Học sinh có kĩ năng tốt trong việc sử dụng từ, đặt câu. + Học sinh có khảnăng vận dụng thực hành tốt hơn. + Các em có thể kiểm tra rà soát lại bài làm của mình, của bạn. + Đặc biệt khảnăng giao tiếp, tác phong nhanh nhẹn hơn trong học tập, trong vui chơi. Thích học phân môn này hơn… Cụ thể qua các tiết học trên lớp, bài kiểm tra và qua các kì thi học sinh đều đạt điểm cao. Trong lớp có nhiều học sinh làm bài tập rất tốt, từ bài tập làm miệng đến bài tập làm viết cả lớp đều làm được. Vì vậy mà kết quả kiểm tra cuối năm phân môn Luyện từ và câu qua các học kì tăng dần. Do đó, kéo theo điểm kiểm tra môn Tiếng Việt cũng được nâng dần lên. - Kết quả kiểm tra môn Tiếng Việt của lớp qua từng năm học tăng cụ thểnhư sau: Điểm 14 https://tieuhoc.net/

  15. Năm học Tổng số học sinh 32 24 9 - 10 SL 14 11 7 - 8 TL % SL TL % SL TL% 40,63 5 15,62 37,5 4 16,67 5 - 6 Dưới 5 TL % 43,75 45,83 SL 13 9 2016-2017 2017-2018 - Từ sựhướng dẫn của giáo viên về cách học, cách phát biểu, tranh luận, cách tìm từ, đặt câu, … Từđó các em không còn nhút nhát mà đã mạnh dạn nói ra được những suy nghĩ hiểu biết của mình về kiến thức bài học. - Tuy kết quả này là hết sức nhỏbé, song nó cũng động viên tôi rất nhiều trong công tác giảng dạy của mình. 3. Lợi ích thu được từ khi áp dụng sáng kiến: * Đối với bản thân: - Sau khi vận dụng một sốphương pháp tích cực vào dạy các tiết luyện từ và câu ở lớp 4, tôi thấy kết quả học tập của lớp được nâng lên rõ rệt, học sinh sôi nổi phát biểu xây dựng bài, thi đua tranh luận đểtìm ra đáp án, các em đã mạnh dạn phát biểu về nội dung bài học. Qua các tình huống giao tiếp trong bài tập các em hiểu được kiến thức về từ và câu, phát triển được tư duy của mình, có tinh thần thi đua học tập. Các em đã có tiến bộ rõ rệt, nói năng rõ ràng, rành mạch hiểu bài nhanh. - Trên đây là một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 mà tôi đã vận dụng trong quá trình giảng dạy và kết quảđạt được cũng tương đối khả quan, giúp học sinh say mê, hứng thú, chịu khó nghiên cứu tìm tòi để tìm ra cách học hay nhất. Học sinh phải tự rèn luyện cho mình qua các bài tập ở lớp, ở nhà. Từđó khắc phục được những nguyên nhân còn hạn chếnhư: tìm từ, đặt câu, nhìn tranh, … Qua đó các em yêu thích môn học này giúp các em học đạt hiệu quả. - Trong giảng dạy tôi luôn coi học sinh là trung tâm, tổ chức và hướng dẫn giúp học sinh có suy nghĩ độc lập, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, tự tin trong làm bài và học có tiến bộhơn. - Qua những điều đã trình bày ởtrên, tôi rút ra được một số kinh nghiệm về bản thân như sau: + Để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu, hiệu quảtrước hết giáo viên phải nắm vững về kiến thức, kĩ năng thực hành Tiếng Việt. + Thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc. + Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức với đồng nghiệp, sách giáo khoa, sách tham khảo, tiếp thu có chọn kiến thức rừ mạng internet,…. + Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, ghi chép giáo án một cách khoa học. + Tạo sự giao tiếp cỡi mở, thân thiện với học sinh. + Giáo viên phải khơi dậy niềm say mê, hứng thú của học sinh đối với môn học Tiếng Việt, luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập. * Đối với giáo viên: - Thực tế cho thấy ở các vùng nông thôn, việc áp dụng các phương pháp dạy học phân môn Luyện từ và câu. Giáo viên cần linh hoạt khi soạn bài, không nên áp dụng khuôn mẫu mà phải tùy theo thực tế của từng vùng, của lớp mình để giảng dạy cho phù hợp. Giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp đểhướng dẫn các em thì sẽ giúp các em học tốt môn này. - Luôn đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp sẽlà điều rất quan trọng trong tiến trình dạy học giữa thầy và trò. Chính vì thếmà người thầy cần phải linh hoạt trong quá trình tổ chức hoạt động dạy - học giúp các em tiếp thu tốt việc học môn Tiếng Việt của mình. 15 https://tieuhoc.net/

  16. - Đểđạt được điều đó, người giáo viên cần phải lựa chọn một sốphương pháp nghệ thuật, kĩ năng sư phạm phù hợp với lớp mình vừa giáo dục cho học sinh vừa hình thành kĩ năng, thói quen học tập. Học sinh phải tự rèn luyện cho mình qua các bài tập ở lớp, ở nhà. Từđó khắc phục được những nguyên nhân còn hạn chế. - Giảng dạy môn Luyện từ và câu, hình thành cho các em có thói quen vận dụng vào cuộc sống. Có thói quen nghe, nói, đọc, viết hoàn chỉnh câu hơn, giúp các em học tốt các phân môn còn lại theo chương trình Tiểu học. - Bản thân người giáo viên phải tích cực tìm tòi, bổ sung kiến thức cá nhân về vốn từ ngữ, tạo cho mình sự tựtin khi bước lên lớp, tránh những bỡ ngỡ, lúng túng khi giảng nghĩa từ, làm mất lòng tin trong học sinh. * Đối với học sinh: - Có thói quen tự học, tự tìm tòi cái mới trong việc học. Từđó nâng cao việc hợp tác trong học tập đểcác em đánh giá lẫn nhau trong quá trình làm bài. Học cái hay, cái sáng tạo, tự điều chỉnh sửa chữa những lỗi mắc phải. - Qua quá trình dẫn dắt của giáo viên, từ cách học, cách tìm từ, cách đặt câu, … Từđó các em mạnh dạn phát biểu, mạnh dạn nhận xét xây dựng bài học giúp các em hoàn thành tốt các bài tập. * Đối với tổ khối: - Tổ khối chưa tổ chức được cho học sinh tham gia các hoạt động về kiến thức đã học ở các phân môn của từng khối lớp . * Đối với nhà trường: - Thực hiện ý tưởng của mình, năm học vừa qua tôi được biệt phái đến trường Tiều học A Long An và được phân công giảng dạy lớp 4, tôi mạnh dạn áp dụng đề tài “Một số biện pháp nhằm giúp học tốt môn Luyện từ và câu lớp 4” thấy đạt hiệu quả. Tuy hiện nay tôi đã được phân công đảm nhiệm công tác Đội nhưng tôi thấy đề tài này có giá trị thực tiễn tốt nếu được áp dụng đại trà cho giáo viên lớp 4 của trường Tiểu học B Long An sẽđạt được kết quả cao. V. Mức độảnh hưởng: 1. Khảnăng áp dụng giải pháp: - Trong công tác giảng dạy, vai trò của người thầy rất quan trọng. Người giáo viên cần phải tạo ra sự mới mẻ, biết đưa học sinh tới sự bất ngời thú vị. Bằng ngôn ngữ, hình ảnh, kinh nghiệm và các phương tiện dạy học, giúp các em có một động cơ học tập đúng đắn, có ước mơ và hoài bão. - Người giáo viên cần biết khai thác triệt để vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh, kích thích được tính tò mò, lòng ham hiểu biết, ham hoạt động của các em. Biết tổ chức hoạt động học tập cho học sinh một cách nhịp nhàng, sáng tạo và hiệu quả. - Vì thế, giáo viên chúng ta cần nghiên cứu kĩ bài soạn nhằm phát huy được tính sáng tạo của học sinh, ham mê học, học tập tích cực hơn “chơi mà học, học mà chơi”, vận dụng nhiều phương pháp để học sinh học nhẹnhàng hơn (tránh áp đặt học sinh) để các em học tập tích cực hơn. - Để mỗi tiết dạy có hiệu quả, ngoài việc để học sinh tích luỹ một số vốn từ ngữ, hiểu được một sốlượng kiến thức nhất định. Giáo viên cần hướng dẫn cho các em vận dụng vào các bài tập thực hành cũng như hoạt động giao tiếp trong cuộc sống. - Do đó, người giáo viên cần linh hoạt sử dụng các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình. Với sự gợi mở dẫn dắt của thầy, trò tích cực tìm tòi trao đổi thảo luận để tìm ra cách học hay nhất. Từđó các em say mê học tập và học ngày càng tiến bộhơn. 16 https://tieuhoc.net/

  17. - Đề tài này có khảnăng áp dụng trong các trường Tiểu học. 2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp đó: - Đây là đề tài rất dễ áp dụng, tiện lợi và ít tốn kém trong triển khai thực hiện. Đề tài gắn liền xu hướng đổi mới giáo dục cũng như việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực “lấy học sinh làm trung tâm”. Trong đó đổi mới cách dạy phân môn Luyện từ và câu sao cho đạt chất lượng tốt hơn. Để thực hiện hiệu quả, nhà trường cần trang bị những tranh ảnh minh họa, phục vụ cho việc học của học sinh được tốt hơn, tạo cho các em lòng say mê, tính tự tin thích quan sát, tìm hiểu những điều mới lạ trong quá trình học tập. VI. Kết luận: *Kết luận lại khái quát vấn đềđã nêu : - Tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng các phương pháp dạy học trong phân môn Luyện từ và câu, Giáo viên cần linh hoạt khi soạn bài, không nên áp dụng khuôn mẫu mà phải tuỳ theo thực tế của từng vùng, của lớp mình để giảng dạy cho phù hợp. Giáo viên phải biết kết hợp nhiều phương pháp, để hướng dẫn các em thì sẽ giúp các em học tốt môn học này . - Giáo viên cần tham khảo trước nội dung bài dạy, vận dụng các hình thức học tập phù hợp sẽ nâng cao khảnăng học tập của học sinh. - Việc đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp sẽlà điều rất quan trọng trong tiến trình dạy học của thầy và trò. Chính những vấn đề này mà người thầy cần phải linh hoạt trong quá trình tổ chức hoạt động dạy- học giúp các em tiếp thu tốt việc học tiếng Việt của mình. - Không những hướng dẫn cho học sinh học tập, mà giáo viên cũng vận dụng nghệ thuật, kĩ năng sư phạm, vừa giáo dục cho học sinh vừa hình thành kĩ năng, thói quen học tập. Học sinh phải tự rèn luyện cho mình qua các bài tập ở lớp, ở nhà, từđó khắc phục được những nguyên nhân còn hạn chế như: tìm từ, đặt câu, nhìn tranh tìm đồ vật, … qua đó các em yêu thích phân môn này giúp các em học ngày càng tiến bộ . * Điều kiện thực hiện sáng kiến này : - Dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 nói riêng và bậc Tiểu học nói chung, rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển kĩ năng cơ bản cho học sinh, góp phần giúp các em học tập và giao tiếp trong cuộc sống. Từđó các em yêu thích môn học, yêu thích thiên nhiên, …biết bảo vệmôi trường, cây xanh, … - Qua quá trình thực hiện và kết quảđạt được trong giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, tôi rút ra được một số kinh nghiệm để dạy tốt và đạt hiệu quảmà người giáo viên cần phải thực hiện: + Giáo viên cần xác định mục tiêu của bài dạy và yêu cầu của từng bài tập. + Tạo sự giao tiếp cỡi mở, thân thiện với học sinh. + Rèn học sinh thói quen đọc truyện, sách khi ở nhà và chuẩn bị bài tốt. + Biết phối hợp giảng dạy các phân môn trong quá trình giảng dạy. + Luôn luôn động viên, khuyến khích kịp thời mọi sự tiến bộ của học sinh. + Nắm vững nội dung và mức độ yêu cầu của từng bài tập. Có nhiều biện pháp hình thức tổ chức nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, hướng dẫn làm mẫu, trao đổi, nhận xét, thực hành luyện tập bảng con, bảng lớp, học theo nhóm, cá nhân, … + Sử dụng các phương pháp dạy học đúng mức, đúng lúc, đúng chỗ. + Kết hợp phát huy tác dụng của kênh hình ở sách giáo khoa, có thểsưu tầm và tự làm một sốđồ dùng nhằm giúp học sinh nắm được kiến thức và tích cực tham gia vào hoạt động thực hành luyện tập vềkĩ năng dùng từđặt câu. + Tổ chức các trò chơi để củng cố bài tập như thi đặt câu hay, đúng, thi tìm từ, thi điền từ, thi xếp từ theo nhóm. 17 https://tieuhoc.net/

  18. + Phát hiện những kiến thức học sinh chưa nắm bổ sung kịp thời, đặc biệt quan tâm đến đối tượng chưa hoàn thành. Giáo viên phải theo dõi từng em học sinh để giúp các em làm bài được. + Phải luôn học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Thực hiện đổi mới phương pháp bằng nhiều hình thức trong đó việc soạn giảng bài giảng điện tử là một trong những hình thức mang tính chất quyết định chất lượng học tập của học sinh tốt nhất. + Phải nhiệt tình, sưu tầm truyện sách cho học sinh đọc, đồng thời tìm tài liệu, nghiên cứu bài, xác định vững mục tiêu bài dạy. - Luôn luôn quan tâm đến học sinh đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành, tác động giúp đỡ kịp thời đến các em để các em ham mê học tập. Động viên khuyến khích các em tự rèn luyện cho mình để học tập tốt hơn. Từđó giáo viên rút ra được bài học kinh nghiệm của mình để rèn luyện cho học sinh học tốt cũng như bồi dưỡng các em có năng khiếu. Kết hợp với gia đình động viên, khuyến khích để các em sửa chữa những khuyết điểm, từđó hình thành thói quen tích cực học tập hơn. - Đểđạt được kết quả cao trong giảng dạy, mỗi giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề nghiệp, đi sâu vào tìm hiểu nội dung chương trình, áp dụng phương pháp mới trong giảng dạy, đầu tư thiết kế bài soạn để giờ học diễn ra nhẹ nhàng, có hiệu quả. Đi sâu vào tìm hiểu tâm lí học sinh, quan tâm đến mọi đối tượng, tạo điều kiện cho các em thuận lợi trong việc tiếp thu kiến thức. Mỗi giáo viên cũng cần thường xuyên học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật những thông tin hàng ngày, nắm bắt những kiến thức mới liên hệ thực tế phù hợp với bài dạy, góp phần giáo dục thế hệ trẻnăng động – những chủnhân tương lai của đất nước. - Ngoài ra, còn phải kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình thường xuyên. Giáo viên khuyến khích, động viên các em tự hình thành cho mình có thói quen tích cực học tập. Qua đó các em hiểu được khắc phục những mặt chưa đạt và tự sửa chữa những khuyết điểm của mình thành thói quen có tính cẩn thận hơn, tích cực hơn. - Chính vì thế, giáo viên cần linh hoạt sử dụng các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp mình, làm sao với sự gợi mở dẫn dắt của giáo viên, học sinh tích cực tìm tòi trao đổi thảo luận để tìm ra cách học hay nhất. Từđó các em say mê học tập và học tập nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn . * Hướng nghiên cứu tới đây : - Hướng tới đây, tiếp tục nghiên cứu bổ sung vào sáng kiến này như : Giáo viên biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học. Biết tạo môi trường thân thiện với các em, gần gũi các em, khuyến khích các em chăm chỉ học tập, … Từđó các em có cơ hội bộc lộ hết khảnăng của mình. Giúp các em mạnh dạn trình bày quan điểm ý kiến của mình trước tập thể, biết tự học hỏi lẫn nhau trong quá trình thảo luận . - Giáo viên cần quan tâm giúp đỡ học sinh chậm tiến bộ, phát huy sở trường của học sinh. Đối xử công bằng và bình đẳng, khen chê hợp lý có tính giáo dục cao. - Thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách dạy của giáo viên, cách học của học sinh. Đưa học sinh từ vai trò học thụđộng sang vai trò chủđộng trong việc tiếp thu kiến thức mới. - Giáo viên cần học hỏi thêm về công nghệ tin học để áp dụng vào việc giảng dạy của mình. Thông qua bài soạn trên máy nghiên cứu thêm bài soạn trên mạng để làm hành trang trong việc giảng dạy có hiệu quả hơn . - Tổ chức các hoạt động ngoài giờ, quan sát học tập ngoài sân trường, … sẽ giúp các em có điều kiện tiếp súc với môi trường xung quanh, có cơ hội học hỏi lẫn nhau, hoạt bát, linh hoạt, tự tin và mạnh dạn hơn . 18 https://tieuhoc.net/

  19. - Giáo viên tổ chức đa dạng hoá các hình thức học tập, tạo ra một không gian gợi mởđể giúp các em tiếp thu học tốt phân môn Luyện từ và câu và các môn học còn lại . Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiến Nguyễn Văn Mới 19 https://tieuhoc.net/

More Related