0 likes | 9 Views
Nghiu00ean cu1ee9u u0111u1ec1 tu00e0i, tu00f4i khu00f4ng cu00f3 nhiu1ec1u tham vu1ecdng mu00e0 chu1ec9 nhu1eb1m mu1ee5c u0111u00edch gu00f3p mu1ed9t phu1ea7n cu00f4ng su1ee9c cu1ee7a mu00ecnh vu00e0o cu00f4ng tu00e1c giu00e1o du1ee5c cu1ee7a nhu00e0 tru01b0u1eddng. Vu1edbi viu1ec7c nghiu00ean cu1ee9u u0111u1ec1 tu00e0i, tu00f4i mong muu1ed1n su1ebd cu00f3 u0111u01b0u1ee3c bu00e0i hu1ecdc kinh nghiu1ec7m u0111u1ec3 cu00f3 thu1ec3 u00e1p du1ee5ng vu00e0o thu1ef1c tiu1ec5n giu1ea3ng du1ea1y phu00e2n mu00f4n Tu1eadp lu00e0m vu0103n trong tru01b0u1eddng Tiu1ec3u hu1ecdc B Long An nu00f3i riu00eang, cu00e1c tru01b0u1eddng trong tu1ec9nh nu00f3i chung. Tru00ean cu01a1 su1edf cu00e1c kiu1ebfn thu1ee9c, ku0129 nu0103ng vu1ec1 vu0103n miu00eau tu1ea3 u0111u00e3 u0111u01b0u1ee3c hu1ecdc, hu1ecdc sinh cu00f3 thu1ec3 vu1eadn du1ee5ng hu1ecdc tiu1ebfp lu00ean lu1edbp tru00ean.
E N D
PHÒNG GD-ĐT TÂN CHÂUCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦNGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH B LONG AN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁO CÁO SÁNG KIẾN GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT VĂN MIÊU TẢ I/ Sơ lược lý lịch tác giả: -Họ và tên: NGUYỄN TẤN NHỰT Nam, nữ: Nam. -Ngày tháng năm sinh: 27/12/1984. -Nơi thường trú: Tổ 24, ấp Long Hiệp, Long An, Tân Châu, An Giang. -Đơn vịcông tác: Trường Tiểu học B Long An. -Chức vụ hiện nay: Tổtrưởng khối 5. -Trình độ chuyên môn: Cử nhân tiểu học. -Lĩnh vực công tác: Giáo viên dạy lớp. II.Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị: Trường có 01 điểm do 3 điểm trường trước đây hợp thành, nằm ven theo bờsông Kênh Xáng. Năm 1998 trường được xây dựng mới trên mặt bằng rộng cặp theo lộ giao thông Long An - Châu Phong, tọa lạc trên tuyến dân cư thuộc Ấp Long Hòa, xã Long An, từđó đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập. Dân số sinh sống trong địa bàn khá đông, đa sốngười dân lao động nghèo, sống bằng nghề buôn bán nhỏ, làm ruộng, làm thuê. Thực hiện chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, địa phương được chọn là xã điểm của tỉnh trong việc xây dựng nông thôn mới. Năm 2015 xã Long An được UBND tỉnh An Giang công nhận đạt chuẩn. Trong năm học này Trường Tiểu học B Long An được công nhận đạt chuẩn quốc gia mức độ 1. 1. Thuận lợi: + Được sự quan tâm của cấp Ủy Đảng, chính quyền địa phương và sự chỉđạo chuyên môn của Phòng GD&ĐT. + Công tác tham mưu, phối hợp thực hiện có hiệu quả nên tổ chức được nhiều hoạt động giáo dục, các phong trào thi đua, hội thi do ngành phát động, duy trì khá tốt sĩ sốở các khối lớp. + Các ngành, đoàn thể, ấp, cha mẹ học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động của nhà trường; Xã hội hóa giáo dục có chuyển biến tích cực. + Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao phấn đấu hoàn thành nhiệm vụđược giao. + Được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đạt chuẩn, tạo điều kiện phấn đấu để nhà trường đạt chuẩn quốc gia theo lộ trình. 2. Khó khăn: 1 https://tieuhoc.net/
+ Một bộ phận cha mẹ học sinh còn nghèo, thường xuyên làm ăn xa nên học sinh nghỉ dài ngày ảnh hưởng chất lượng học tập. + Một số giáo viên vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy học hiệu quảchưa cao nhất là phương pháp bàn tay nặn bột, ứng dụng công nghệ thông tin, hình thức tổ chức chưa được phong phú để nâng cao hiệu quả giảng dạy. + Đa số học sinh sống ởđịa bàn nông thôn, cha mẹ bận rộn với công việc đồng áng nên ít quan tâm đến việc học của con mình. -Tên sáng kiến:GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT VĂN MIÊU TẢ - Lĩnh vực: Chuyên môn III/ Mục đích yêu cầu của sáng kiến: Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽcó được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn giảng dạy phân môn Tập làm văn trong trường Tiểu học B Long An nói riêng, các trường trong tỉnh nói chung. Trên cơ sở các kiến thức, kĩ năng vềvăn miêu tảđã được học, học sinh có thể vận dụng học tiếp lên lớp trên. 1/ Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến: a) Thuận lợi: + Giáo viên Đội ngũ giáo viên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua nhiều năm thực hiện đổi mới chương trình thay sách giáo khoa + Học sinh Học sinh được mượn sách, được đọc thường xuyên nhiều loại sách ngay tại thư viện của trường. Một số phụ huynh quan tâm tới con em mình nên có sự chuẩn bị đầy đủ về sách vở, dụng cụ học tập. b) Những tồn tại: +Giáo viên: - Việc vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học chưa được giáo viên vận dụng triệt đểnên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho học sinh trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học. - Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai. - Giáo viên chưa khơi gợi sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụvăn học của học sinh, chưa bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt. Đặc biệt sau mỗi bài văn, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh nhận thấy được hình ảnh hay, câu văn hay cần học và những chỗ sai cần khắc phục. + Học sinh: - Học sinh chưa thực sự thấy yêu thích môn học. - Học văn miêu tả, làm văn miêu tảnhưng nhiều học sinh lại thiếu vốn sống thực tế nên dẫn đến tình huống hay gặp trong dạy học Tập làm văn miêu tả là nhiều học sinh sử dụng các gợi ý của giáo viên, các đoạn văn mẫu để viết (theo kiểu kể lại câu chuyện đã 2 https://tieuhoc.net/
nghe, đã đọc). Học sinh chưa biết cách sử dụng biện pháp nghệ thuật vào bài và bộc lộ cảm xúc. - Một khó khăn nữa là nhiều học sinh viết chữchưa đẹp, sai chính tả nhiều. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn. Có bài viết, số chữ sai chính tả nhiều hơn số chữ viết đúng. Với một bài văn đầy lỗi chính tả, tẩy xóa thì việc đọc lại bài, trau chuốt câu văn, sửa ý, sửa từ quả là rất khó. - Phần lớn học sinh trong lớp đều là con nông dân. Nên việc dạy dỗ, rèn luyện ở nhà còn hạn chế. Với các em, vốn sống, vốn kinh nghiệm còn hạn hẹp. Đặc biệt vốn từ của em còn hạn chế. Có khi các em có trong đầu đối tượng miêu tả, định miêu tảnhư thếnày nhưng lại không biết dùng ngôn ngữnào để diễn đạt ý của mình. Nên trong bài văn của các em, khi đọc lên thấy có nhiều từ tối nghĩa, có nhiều câu cụt. Bài văn khô cứng, rời rạc như ghi chép lại, lắp ráp một cách thô sơ, không hề có sựsuy nghĩ chủ quan, không bộc lộ thái độ, tình cảm của người viết. Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chếnhư vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quảcao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5. 2/ Sự cần thiết khi áp dụng sáng kiến: Nhiệm vụ của người giáo viên tiểu học là cung cấp những kiến thức một cách toàn diện cho học sinh. Mỗi môn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quảcao. Đối với học sinh lớp 5, phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung là phần mà các em ngán ngại nhất. Bởi phân môn này đòi hỏi ở học sinh sự tổng hợp của quan sát thực tế; chọn lọc hình ảnh, nội dung cần thiết, vận dụng kiến thức ngữ pháp, vốn từ ngữ, nắm chắc thể loại văn, sử dụng tốt các phương pháp nghệ thuật văn học như là nhân hóa, so sánh,… để có thể viết thành một bài văn theo yêu cầu đề. Mặt khác, nội dung kiểm tra cuối năm ở lớp 5 gần như là tất cả thể loại văn mà các em đã được học ở tiểu học: Tả cảnh, tảngười, tảđồ vật, tả cây cối,…. Chính vì thế, để học sinh có thể hoàn thành tốt bài văn là điều không dễ dàng. Nếu như tảngười, tả cây cối, con vật, đồ vật, giáo viên có thể hình thành cho các em trình tự tảđể ghi nhớ thì tả cảnh lại là điều hết sức khó. Vì mỗi cảnh khác nhau, cảm nhận và cách quan sát của mỗi người cũng khác nhau. Do đó, để học sinh nắm trình tự thể loại này chỉ có thể nêu cho các em cách tả chung theo thứ tự không gian từxa đến gần, từ gần ra xa, từ cao xuống thấp hay từ thấp lên cao…Ví dụ: Đề bài “ Tả quang cảnh trường em trước buổi học” thì tả từtrong trường ra đến cổng trường… Với thể loại văn tả cảnh, các em thường dễsa đà vào tường thuật như với đề“Tả một cảnh đẹp mà em có dịp tham quan”, học sinh thường kể lại đi với ai, bằng xe gì, dọc đường ăn sáng ở đâu, thời gian đến nơi là bao lâu… mà không diễn đạt được cảnh đẹp mình được ngắm. Vì vậy, cần nhấn mạnh cho các em rõ tả cảnh là “vẽ lại hình ảnh bằng lời văn”. Qua bài văn, người đọc có thểtưởng tượng ra cảnh đó như một bức tranh hay một ảnh chụp trước mắt. Vì trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng Việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các bộ môn học khác, đặc biệt chương trình mới đã chú trọng đến yêu cầu luyện tập thực hành vềkĩ năng luyện nói, viết cho học sinh. Nhưng dạy tập làm văn ở lớp 5 có những điểm khó, vì nó đòi hỏi năng lực hướng dẫn và ứng xử linh hoạt của giáo viên trên lớp. Bởi vậy, làm thếnào để dạy tốt 3 https://tieuhoc.net/
phân môn Tập làm văn là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Là một giáo viên được phân công dạy lớp 5, qua thời gian giảng dạy tôi thấy học sinh của mình rất cố gắng học tập, đặc biệt là môn Tiếng Việt. Thực tế cho thấy khi học phân môn Tập làm văn thì nhiều em còn lúng túng. Với suy nghĩ: " Làm thếnào để học sinh viết được một bài văn hay và tự tin trong học tập?”. Để tháo gỡ những khó khăn trên, tôi quyết định chọn đề tài: “ Giúp học sinh lớp 5 học tốt văn miêu tả”. 3/Nội dung sáng kiến: 3.1. Tiến trình thực hiện Mỗi môn học có những phương pháp học khác nhau nhưng cái chung vẫn là học sinh làm trung tâm của quá trình học tập, giáo viên chỉđóng vai trò người tổ chức hoạt động, dẫn dắt để học sinh làm việc. Muốn thực hiện được yêu cầu trên, khó nhất vẫn là tạo được hứng thú học tập làm văn cho học sinh. Mặt khác, giáo viên cần tôn trọng độc lập suy nghĩ, sự sáng tạo của học sinh qua bài làm tập làm văn. Mỗi bài văn là sản phẩm của từng cá nhân học sinh trước một đề tài. Sản phẩm ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt. Mỗi tiết học tập làm văn phải là một tiết thực hành, cần giảm sự giảng giải của giáo viên đểtăng thời gian cho sự luyện tập của học sinh. Tuy nhiên, phần lí thuyết của từng kiểu bài cần được truyền đạt chính xác, đầy đủđể soi sáng cho học sinh trong quá trình thực hành. Giáo viên phải giúp cho học sinh viết bài văn giàu cảm xúc, tạo nên “cái hồn”, chất văn của bài làm. Luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễxúc động và luôn hướng tới cái thiện. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, hoặc biểu hiện bài làm theo cách sao chép nguyên văn bài mẫu. Kết quả cuối cùng của việc dạy tập làm văn là hiệu quả của những bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật và giàu cảm xúc. Vậy, trong mỗi giờ tập làm văn, giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu này. Ở lớp 5, để viết bài tập làm văn, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là: Lập dàn ý, trao đổi ý, lời văn qua tiết luyện tập (tập làm văn miệng), làm văn viết, rồi được học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài. Trong các tiết học này, giáo viên và học sinh sẽ lần lượt giải quyết các yêu cầu trên. 3.2. Thời gian thực hiện Nghiên cứu và áp dụng cho học sinh lớp 5B Trường Tiểu học B Long An từnăm học 2015 – 2016 và rút kinh nghiệm áp dụng cho các năm sau. Chọn đềtài này để nghiên cứu, tôi đề ra nhiệm vụ cho từng giai đoạn như sau: -Giai đoạn 1: (Năm học 2015-2016) Điều tra, phân loại học sinh lớp 5 khi mới nhận lớp. Từđó mạnh dạn áp dụng những biện pháp nhằm giúp học sinh yêu thích và học tốt kiểu bài miêu tảtrong chương trình Tiếng Việt lớp 5. Trên cơ sở các giải pháp đã áp dụng, tôi sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm trong dạy học kiểu bài miêu tả cho học sinh lớp 5. -Giai đoạn 2: (Năm học 2017-2018) Phát triển sáng kiến thành đề tài nghiên cứu. Tiếp tục áp dụng những biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 5 yêu thích và học tốt kiểu bài miêu tả. 3.3. Biện pháp tổ chức: 4 https://tieuhoc.net/
Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau đây, hi vọng sẽnâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi. a/ Vềphương pháp làm bài tập làm văn: Muốn làm tốt một bài tập làm văn, học sinh phải học và hiểu đầy đủ vềphương pháp làm bài, đồng thời thực hành nhiều lần. Cụ thểcác bước của quá trình một bài tập làm văn viết là: ❖Tìm hiểu đề bài: Trước hết, cần tìm hiểu đềbài đểxác định rõ thể loại bài (miêu tả hay kể chuyện,…), kiểu bài như tả cảnh hay tảđồ vật hoặc tảngười,…và trọng tâm của bài (phần nào là chủ yếu cần nói rõ). Việc tìm hiểu đề bài cần được coi trọng đểxác định đúng yêu cầu của đề bài, tránh lạc đề. ❖Lập dàn ý (kết hợp với việc tìm ý): Dàn ý được lập trên cơ sởtìm được những ý đúng với đề tài và trọng tâm bài. Muốn việc tìm ý đạt yêu cầu tốt ta phải căn cứ vào thực tế quan sát hoặc hiểu biết đối tượng, căn cứ vào hiểu biết của mình qua thực tiễn sống. Tìm được nhiều ý là tốt, nhưng cần phải lựa chọn ý tiêu biểu đểbài làm hướng đúng trọng tâm, tránh được sựrườm rà. Việc tìm ý, chọn ý gắn với lập dàn ý và cả hai công việc này bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Cùng với việc lập dàn ý, ta có thể bổ sung những ý khác mà trước đó chưa tìm ra hoặc loại bỏ một vài ý chưa cần, chưa sát trọng tâm của bài. Lập dàn ý là yêu cầu cần thiết nhất phải có. Một dàn ý rõ ràng, cụ thể, hợp lí sẽ góp phần vào kết quảbài làm văn của học sinh. Và dàn bài của một bài tập làm văn thường có ba phần: - Mở bài. - Thân bài. - Kết bài. ❖Viết thành bài hoàn chỉnh: Đây là khâu rất quan trọng trong quá trình làm văn. Trên cơ sở dàn ý vừa lập, học sinh viết thành câu, thành đoạn, thành bài viết hoàn chỉnh. Lời văn diễn đạt phải rõ ràng, rành mạch, trong sáng, đúng ngữ pháp; diễn đạt có hình ảnh, linh hoạt, sinh động và có cảm xúc. Cần tránh lối đặt câu sai ngữ pháp, lộn xộn,…. Nội dung đúng, lời văn trong sáng và cảm xúc chân thực sẽ tạo nên chất lượng tốt của bài văn. Chính vì vậy mà rất nhiều học sinh luôn dành thời gian thích đáng để viết nháp hoặc chuẩn bịchu đáo trước khi viết bài chính thức. Và đó là một việc làm tốt cần phát huy (tất nhiên chỉ có thể viết nháp trong một khoảng thời gian cho phép hoặc đọc dò lại bài chuẩn bịtrước để việc làm bài hoàn chỉnh đảm bảo đúng thời gian quy định). ❖Đọc soát lại bài làm : Để tránh những sơ suất trong việc dùng từvà đặt câu, đồng thời để tránh những lỗi chính tả, học sinh cần đọc lại bài viết của mình để sửa chữa những chỗ sai, xóa bỏ những chữ thừa hoặc bổ sung những từ ngữdo vô tình đã bị thiếu khi viết. Việc làm này là cần thiết để“tu chỉnh” cho bài văn đạt kết quả tốt hơn. b/ Về xây dựng nội dung: * Đối với văn tả cảnh:là văn dựa trên sự quan sát, óc nhận xét của mình, rồi dùng ngôn ngữ (nói hoặc viết) dựng lại một bức tranh với những hình ảnh, đường nét, 5 https://tieuhoc.net/
màu sắc và gợi ra cảâm thanh…về một cảnh vật cụ thểnào đó. Chính vì vậy mà giáo viên hướng dẫn cho học sinh phải nắm được ba yêu cầu cơ bản: + Phải dùng ngôn ngữ nói hoặc chữ viết của mình mà vẽ cho ra, trình bày cho được một cách trung thực quang cảnh mình muốn tảđểngười nghe, người đọc cùng thấy được, cùng hình dung được quang cảnh được tả một cách rõ ràng, tường tận. + Phải giúp cho người đọc, người nghe cảm nhận như chính mình. + Phải trình bày bài văn bằng một kết cấu hợp lí, bằng những từ ngữ, hình ảnh trong sáng, chọn lọc. Đây là yêu cầu về sự diễn đạt, về cách nói, cách viết. Vềphương pháp làm bài, giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện ba bước cụ thể như sau: Bước 1: Xác định đối tượng miêu tả. Xác định xem đối tượng em định tả là cảnh gì? ởđâu? Phạm vi không gian, thời gian của cảnh được tả và nội dung chủ yếu cần làm toát lên từ cảnh đó. Bước 2: Quan sát Chọn vị trí quan sát thuận tiện nhất để nắm bắt được những chi tiết, đặc điểm cơ bản, quan trọng của cảnh. Quan sát bằng mắt nhìn, tai nghe và kết hợp các giác quan khác. Lưu ý đến các yếu tốnhư màu sắc, hình ảnh, âm thanh có hòa hợp với nhau không? Bước 3: Sắp xếp ý, chọn lựa từ ngữ, hình ảnh để xây dựng thành một bài văn tả cảnh hoàn chỉnh. Ví dụ: Tả cảnh sinh hoạt là sự tổng hợp của tả cảnh thiên nhiên, cảnh vật, con người…Vì vậy, việc lựa chọn sắp xếp các chi tiết tiêu biểu, hợp lí là hết sức cần thiết. Phải làm sao toát lên cho được trọng tâm và nội dung của cảnh cần tả. Nội dung đủ và phong phú là yêu cầu không thể thiếu của bài văn tốt. Giải quyết vấn đề này, ta cần trải qua khâu thứ nhất của mỗi bài văn là: “Quan sát, tìm ý, lập dàn bài chi tiết”. Mỗi bài văn của học sinh cần có bố cục 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài) đủ ý, đúng yêu cầu và diễn đạt phong phú. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên giáo viên yêu cầu học sinh phải làm là tìm hiểu đề. - Học sinh cần đọc kĩ đề nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề. Ví dụ: Đề bài yêu cầu tả cảnh gì? Vào lúc nào? Cảnh này có đặc điểm gì về người và phạm vi hoạt động? Hoạt động của học sinh, phụ huynh học sinh khi trường tan học thường bộc lộ những điểm gì nổi bật? - Bám sát yêu cầu đề, huy động vốn thực tế tìm ý, xây dựng dàn bài chi tiết trên cở sở dàn bài chung của mỗi thể loại. Ở phần chính của bài văn, giáo viên yêu cầu các em phát triển bằng nhiều ý khác nhau. Ví dụ1. Đềbài: “Em hãy viết một bài văn tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong giờra chơi”. Phần thân bài gồm các ý: a/ Vài nét bao quát về cảnh sân trường lúc giờchơi. 6 https://tieuhoc.net/
b/ Hoạt động cụ thể của học sinh ởsân trường trong giờra chơi. c/ Khung cảnh sân trường lúc tín hiệu báo giờra chơi kết thúc. Khi học sinh nêu được những phần chính này, tôi yêu cầu các em trả lời câu hỏi: “Để tảrõ và đúng trọng tâm, em cần xác định đúng những gì?” Học sinh nêu được cảnh thứhai. Sau đó, tôi cho các em phát triển ý trong mỗi phần(chú ý là phần trọng tâm): GV hỏi: Từ trong lớp học, các bạn học sinh tỏa ra sân trường thế nào? Cảnh sân trường lúc này có gì nổi bật về âm thanh, màu sắc, sự hoạt động? Nhóm hoạt động sôi nổi nhất là nhóm nào? Họchơi những trò chơi gì? Các bạn trong nhóm hoạt động thế nào?... Học sinh nêu ý rất đa dạng, tôi cho học sinh phát biểu tự nhiên rồi chốt lại: + Sân trường rộn rã tiếng nói cười, … Những bộđồđồng phục áo trắng quần tây đen nổi bật trên sân trường, trông xa như một đàn cò trắng dừng chân giữa thảm cỏ xanh. Những hoạt động có nhiều học sinh tham gia với không khí sôi nổi, thích thú, ví dụ: đá cầu, nhảy dây, chơi bóng, … - Hướng dẫn học sinh quan sát làm nổi bật bản chất của đối tượng miêu tả mà không nhất thiết phải theo một trình tự nhất định như từ trên xuống dưới hay từ ngoài vào trong, từ xa lại gần… * Cùng với việc quan sát trên giáo viên hướng dẫn cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả không chỉ dừng lại ở thị giác mà điều cần thiết giúp các em làm tốt văn miêu tả là phải kết hợp quan sát với nhiều giác quan như: thính giác (tai), khứu giác, xúc giác, vịgiác… Ví dụ: Để miêu tả thành công một cơn mưa rào, tác giả Tô Hoài đã cùng một lúc sử dụng nhiều giác quan để quan sát. * Thị giác: nhìn mây biến đổi trước cơn mưa; thấy mưa rơi; thấy những đổi thay của cây cối, con vật, bầu trời, cảnh tượng xung quanh khi mưa tuôn, lúc mưa ngớt. * Khứu giác: ngửi thấy mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những trận mưa mới đầu mùa. 7 https://tieuhoc.net/
* Thính giác: nghe thấy tiếng gió thổi; thấy sự biến đổi của tiếng mưa; nghe thấy tiếng sấm, tiếng chim hót… * Xúc giác: làn da cảm thấy sự mát lạnh của làn gió nhuốm hơi nước mát lạnh trước cơn mưa,… Ví dụ: đây là bài văn “ Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em giò ra chơi ” của em Tô Thị Mỹ Diện: 8 https://tieuhoc.net/
* Đối với văn tảngười: Giáo viên yêu cầu học sinh chú ý đến ba mặt: hình dáng, tính tình (tính nết) và hoạt động. Vì ba mặt này có liên quan chặt chẽ với nhau và đều nhằm làm nổi bật rõ tinh thần, tình cảm và tính cách của người được tả. Về tả hình dáng (ngoại hình) một người, ta thường chú ý đến tầm vóc, khuôn mặt, mái tóc, làn da, cặp mắt…cách ăn mặc, dáng đi, tiếng nói cười nhưng cần lướt qua (hoặc lược bỏ) những nét không nổi bật, để tập trung vào những đặc điểm tiêu biểu, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Thông thường, dựa vào tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống của mỗi người, ta có thể chọn tả những nét phù hợp và nổi bật. Ví dụ: nhà văn Ma Văn Kháng tả anh Hạng A Cháng khỏe mạnh qua các hình ảnh như “ ngực nở vòng cung, bắp tay bắp chân rắn như trắc gụ; vóc cao, vai rộng; người đứng như cái cột đá trời trồng; khi đeo cày, trông hùng dũng như một chàng hiệp sĩ, chăm chắm vào công việc; người anh như rạp hẳn xuống, đôi chân xoải dài ”…; còn nhà văn Trần Vân tả một chú bé sống ở vùng biển qua những hình ảnh và chi tiết cụ thể: “Nó cởi trần, phơi nước da rám đỏ khỏe mạnh của những đứa trẻ lớn lên với nắng, nước mặn và gió biển. Thân hình nó rắn chắc, nở nang: cổ mập, vai rộng, ngực nởcăng, bụng thon hằn rõ những múi, hai cánh tay gân guốc như hai cái bơi chèo, cặp đùi dế to, chắc nình nịch. Thắng có cặp mắt to và sáng. Miệng tươi hay cười. Cái trán hơi dô ra, trông có vẻ là một tay bướng bỉnh, gan dạ…” 9 https://tieuhoc.net/
Ở những nét nổi bật vềhình dáng nói trên, người đọc dễ dàng nhận thấy một anh A Cháng rất khỏe, rất giỏi, cần cù, say mê lao động và một đứa trẻ lớn lên ở biển, bơi lội rất giỏi có sức khỏe dẻo dai mà cả tính tình Thắng- thông minh, bướng bỉnh và gan dạ. Về tả hoạt động của người, cũng cần tập trung vào những biểu hiện chính với từng dáng điệu, cử chỉ, lời nói, động tác…sao cho rõ đặc điểm tính tình hay phẩm chất tư cách của người đó. Trong bài văn “Người thợrèn” (SGK lớp 5- tập 1- trang 123). Tác giả miêu tả người thợrèn đang làm việc:“Anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, giãy lên đành đạch.” Ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tảsinh động làm nổi bật hình ảnh người thợ rèn như một người chinh phục dũng mãnh và thấy rõ quá trình biến thỏi thép thành một lưỡi rựa. 10 https://tieuhoc.net/
Về tả tính tình của một người không chỉ liệt kê tất cảcác đặc điểm về tính nết của người ấy. Để làm rõ tính cách của một người, ta thường nêu những dẫn chứng cụ thể hoặc thông qua các biểu hiện bên ngoài như lời nói, cử chỉ, hành động, việc làm, cách ăn mặc hay đi đứng… của người được tả. Những ví dụ về cách tả hình dáng, hoạt động nêu trên đã cho thấy điều đó; hoặc như nhà văn Đào Vũ tả chị Chấm, một cô gái nông thôn mộc mạc, giàu tình cảm: “Có bữa đi xem phim, những cảnh ngộ trong phim làm Chấm khóc suốt buổi. Đêm ấy về ngủ, trong giấc mơ Chấm lại khóc mất bao nhiêu nước mắt…”. Thông qua hành động, việc làm…người viết còn cần bộc lộđược những suy nghĩ, tình cảm hay tâm trạng của nhân vật. Đó là những biểu hiện về nội tâm, cho thấy tính cách của người được tả rõ nét và sâu sắc. Về bố cục bài văn tảngười thường căn cứ vào yêu cầu do đềbài đặt ra (tùy theo yêu cầu tảkĩ mặt nào mà tập trung làm rõ mặt đó, bằng cách trình bày lần lượt hoặc kết hợp, xen kẽ các mặt), sau đây là dàn bài chung của văn tảngười: a. Mở bài: Giới thiệu người muốn tả. (Ởđâu, gặp gỡ quen biết trong dịp nào, nghề nghiệp làm gì? Quan hệngười đó với mình như thế nào?) b. Thân bài: (nêu đủ 3 mặt) - Hình dáng: Tả bao quát về tuổi tác, nghề nghiệp; tầm vóc, cách ăn mặc (quần áo), dáng đi đứng…Tảkĩ những nét nổi bật, đáng chú ý về khuôn mặt hay mái tóc, cặp mắt, nụcười, … - Tính tình: Nêu rõ lời nói, cử chỉ, thái độcư xử hay việc làm của người được tả nhằm bộc lộ phẩm chất đạo đức, tình cảm, thói quen của người đó. - Hoạt động: Tảkĩ và có thứ tự các cử chỉ, động tác, lời nói để thấy được cách làm việc, thái độ và tính nết của người được tả. c. Kết bài: Cảm nghĩ của bản thân đối với người được tả: yêu mến, kính trọng, học tập…và những ảnh hưởng của người đó đối với cuộc sống của mình. Ví dụ 1: “Hãy tả hình dáng và những nết tốt của một bạn trong lớp em được nhiều người quý mến”, phần thân bài gồm các ý: a/ Hình dáng người bạn. b/ Tính tình người bạn. Khi học sinh nêu được hai phần chính này, tôi yêu cầu các em trả lời câu hỏi: “Để tảrõ và đúng trọng tâm, em cần xác định đúng những gì?” Học sinh nêu được cảnh thứhai. Sau đó, tôi cho các em phát triển ý trong mỗi phần(chú ý là phần trọng tâm): GV hỏi: Bạn có những nét gì riêng biệt, đáng chú ý,.. Ấn tượng sâu đậm hoặc kỉ niệm tốt đẹp của em với bạn là gì? Học sinh nêu ý rất đa dạng, tôi cho học sinh phát biểu tự nhiên rồi chốt lại: + Những nét nổi bật khiến em dễ phân biệt bạn với người khác trong lớp về khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, nụcười, giọng nói,.. Sau khi xây dựng xong ý khái quát vềhình dáng, giáo viên hướng dẫn cho học sinh xây dựng về tính tình, hoạt động và việc làm. Cách làm như trên, tôi yêu cầu các em phải chú ý những mối liên hệ giữa mọi người. Học sinh nêu, sau đó tôi chốt lại: + Em và nhiều người còn quý mến bạn vì những nết tốt gì khác (ví dụ: dũng cảm, thương người, giúp đỡ các em nhỏ,..), thể hiện qua việc làm, cách cư xử của bạn thế nào? 11 https://tieuhoc.net/
Đây là phần thân bài văn tả“ Một người bạn trong lớp em được mọi người quí mến.”của em Nguyễn Bảo Nhung học sinh lớp 5B trường Tiểu học B Long An. Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻkhác nhau nhưng đều đảm bảo đủ ý chính. Tuy nhiên, bài văn hay nếu chỉđủý thì chưa đạt mà cần phong phú về nội dung. Vì thế, tôi luôn cho các em tùy ý lựa chọn nội dung viết theo đề bài yêu cầu đảm bảo đúng trọng tâm. Nhằm giúpcho học sinh nắm vững kiến thức vềkĩ năng viết bài tập làm văn đạt kết quả cao. Tôi tiếp tục hướng dẫn và yêu cầu các em làm thêm một sốđề bài vềvăn tả người như tả bà(ông), tả bạn, tảem bé, … Và đây là bài văn tả ông của mình của em Tô Thị Hồng Nhihọc sinh lớp 5B trường Tiểu học B Long An. 12 https://tieuhoc.net/
Và đây là đoạn văn tả em bé hoặc bạn nhỏ của em Huỳnh Thị Kim Loan học sinh lớp 5B trường Tiểu học B Long An. 13 https://tieuhoc.net/
c/ Vềdiễn đạt có nghệ thuật: Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết luyện tập (làm văn miệng). Qua tiết này, học sinh thể hiện cách diễn đạt của mình và học tập bạn, được luyện cách mở bài, kết bài và tập vận dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học vào việc diễn tả nội dung. c.1. Luyện cách mở bài, kết bài. * Phần mở bài: Các em có thể vào bài trực tiếp hoặc gián tiếp, có em mở bài bằng một câu nhưng có em bằng cả một đoạn văn, nhưng không ai được phép tách rời nội dung đã xây dựng được. Ởđây, tùy nghệ thuật vào bài của mỗi em mà giáo viên góp ý, không gò bó áp đặt. Ví dụ1: Đềbài “Tả một người thân ( ông, bà, cha, mẹ, anh, em,…) của em”. + Có em mởbài đi thẳng luôn vào đề: “Trong gia đình em, có một người mà em rất mực yêu quý, đó là bà nội của em” (chỉ bằng một câu, nhưng đủ ý). + Có em mởbài hơi dài nhưng chứa đựng nhiều kỉ niệm: Hoặc: 14 https://tieuhoc.net/
Hay đoạn mở bài của em Thúy Oanh lớp 5B: Ví dụ2: Đềbài “Tảngôi trường đã gắn bó với em với nhiều kỉ niệm”. Em Kim Xuân thì chọn cách mở bài ngắn gọn, đi thẳng vào ngôi trường mình định tả: “ Ngôi trường thân yêu mà em đã gắn bó suốt 5 năm trời đó là Trường Tiểu học B Long An.” Còn em Như Ý lại chọn cách mởbài dài dòng hơn nhưng lại có nhiều cảm xúc: Nhờ khuyến khích, học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách làm khác nhau mà vẫn đảm bảo được nội dung chính. * Phần kết bài: Có nhiều cách kết bài khác nhau nhưng tất cảđều phải xuất phát từ nội dung chính. Cũng như mở bài, học sinh nêu cảm xúc hoặc thâu tóm lại vấn đềthì cũng có thể bằng nhiều cách nhưng nên chọn cách nào cho hay. 15 https://tieuhoc.net/
Ví dụ: + Bà của tôi là thếđấy! + Đến nay, bà đã đi xa, nhưng những kỉ niệm về bà vẫn còn sống mãi trong lòng tôi + Mẹem như một ngọn đèn tỏa sáng và sưởi ấm dịu dàng, âu yếu giống như thiên tính của phụ nữ. Mẹchăm sóc cảnhà chu đáo. Chúng em và bố rất tôn trọng và yêu thương mẹ. Em hứa học tập giỏi để mẹ vui lòng. Trong dạy Tập làm văn nói chung và văn miêu tả nói riêng, việc dạy cho học sinh viết mở bài, xây dựng các đoạn thân bài là quan trọng, thì việc giúp học sinh viết đoạn kết bài cũng là khâu không kém phần quan trọng, đòi hỏi học sinh phải tư duy linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khảnăng đã có vào các cách viết khác nhau để nêu cảm xúc, suy nghĩ của mình vềđối tượng mình miêu tả. Kết bài có nhiệm vụ nêu cảm xúc, suy nghĩ ấn tượng tốt đẹp của đối tượng miêu tảở thân bài. Kết bài đòi hỏi ngắn gọn, ít ý nhưng phải rõ ràng, kết lại nội dung. Nếu kết bài nói đâu đâu tách rời thân bài thì nội dung cảbài văn cũng vô nghĩa chẳng để lại ấn tượng cho người đọc, người nghe. Kết bài có hai cách: Kết bài mở rộng và kết bài không mở rộng. Kết bài không mở rộng là kết thúc vấn đềmình đã tả. Với kiểu kết bài này, học sinh bình thường cũng dễdàng làm được đúng yêu cầu. Ví dụ: Đây là đoạn kết bài của em Huỳnh ThịMinh Thư học sinh lớp 5B trường Tiểu học B Long An. Kết bài mở rộng là nói lên được tình cảm của người tả với đối tượng miêu tả hoặc nêu lên tác dụng, ích lợi của đối tượng miêu tả với mình và mọi người. Cách kết bài mở rộng khó hơn, vì ngược với cách trên nó đòi hỏi học sinh phải có tình cảm, phải hiểu sâu vềđối tượng miêu tảthì lúc đó mới thể hiện được ở kết bài. Ví dụ: Đây là đoạn kết bài của em Nguyễn Thị Kim Xuyến học sinh lớp 5B trường Tiểu học B Long An. 16 https://tieuhoc.net/
Hoặc : Em Kim Loan viết kết bài tảngười bạn của mình. Nhiệm vụ của người giáo viên là phải giúp cho học sinh biết khai thác các cách viết kết bài, giúp học sinh từng bước phát triển năng lực viết văn. Trong việc hướng dẫn học sinh diễn đạt thì biện pháp chủ yếu của giáo viên là chia thành các ý nhỏ cho nhiều học sinh phát biểu và giáo viên còn chú ý quan tâm nhất đối với những học sinh còn yếu làm văn. Sau đó chắt lọc, hướng dẫn cho học sinh cách nào được, cách nào chưa được để phát huy hay sửa chữa. c.2. Tập diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh nghệ thuật và sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học. Để tiến hành, giáo viên gợi ý cho học sinh trong những khi làm miệng bài văn, bằng những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ. Giáo viên luôn hướng dẫn cho học sinh biết chọn lựa chi tiết, diễn đạt bằng câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từđã học như so sánh, nhân hóa…trong các thể loại, kiểu bài tập làm văn. Ví dụ. Dạy bài tập làm văn tảngười, tôi hỏi: hình dáng (mái tóc, hàm răng, nước da,..), tính nết con người có thể tả bằng câu văn có dùng biện pháp so sánh như thế nào? Học sinh diễn đạt thành từng câu văn có sử dụng biện pháp so sánh như: - Mái tóc dài mượt mà buông thả, thướt tha như dòng suối. - Hàm răng trắng đều như hai hàng bắp. - Nước da trắng mịn như trứng gà bóc (hay: nước da ngăm ngăm bánh mật). - Cô em hiền và dịu dàng như cô Tấm trong truyện cổ tích. - Giọng cô giảng bài ấm áp như vòng tay của mẹ luôn che chở cho con (hoặc: giọng cô nói êm như lời hát ru của mẹ). - Mái tóc bà trắng như cước (hoặc: mái tóc ngả sang màu muối tiêu.) 17 https://tieuhoc.net/
Những câu hỏi gợi ý cách diễn đạt thường được xen vào trong khi học sinh làm văn miệng. Nếu học sinh chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật thì tôi gợi ý để các em khác bổ sung, sửa lại bài cho bạn. Ví dụ: một em nêu: “Mái tóc đen nhánh ôm lấy khuôn mặt hồng hào của cô, thật dễ mến”. Một học sinh khác sửa lại: “Mái tóc đen nhánh mượt mà như dòng suối ôm lấy khuôn mặt trái xoan hồng hào của cô, thật dễ mến”. Trong bài văn tả cảnh sinh hoạt, có em nêu: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra sân trường. Sân trường bỗng trở nên ồn ào, náo nhiệt hẳn lên. Những chiếc áo trắng, áo màu như những đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”. Nội dung như thếlà được. Câu văn gọn, đủý. Nhưng đểsinh động hơn, học sinh có thể sửa lại: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra như đàn ong vỡ tổ. Sân trường bỗng trở nên ồn ào. Những chiếc áo trắng, áo hoa, áo màu như những đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”. Tương tựtrong bài văn tả cảnh đẹp, có em nêu: “Mặt trời nhô lên từ rất sớm, phương đông lộ rõ ánh hồng, tỏa những tia nắng ấm áp rực rỡ” Câu văn gọn, đủ ý. Nhưng để làm cho cảnh vật trở nên sống động, có sức gợi tả, học sinh có thể sửa lại: “Mặt trời lên, phương đông lộ rõ ánh hồng. Ánh nắng dịu nhẹ và ấm áp lọt xuống kẽlá, đánh thức côn trùng đang ngủsay sưa trong lòng đất. Sương treo trên đầu ngọn cỏ lại càng long lanh hơn và tan dần theo hơi ấm mặt trời”. d/ Về bộc lộ cảm xúc trong bài văn: Bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không chỉ bộc lộở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu từng đoạn của bài văn. Vì vậy, tôi đã gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài. Ví dụ: Sống với bà, em cảm thấy như thế nào? (Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo như một bà tiên hiền hậu; muốn mình làm điều gì đó cho bà đỡ vất vả). - Được bà chăm sóc hằng ngày, em nghĩ gì? (Tình cảm gần gũi thương yêu của bà như chắp cánh cho tôi vững bước trong cuộc đời). - Dọn dẹp lớp xong, em có cảm giác gì? (Lớp học sạch sẽ, thật mát mẻ). - Giờra chơi kết thúc, trên khuôn mặt của mọi người thể hiện điều gì? (Khuôn mặt ai cũng vui vẻ, rạng rỡ, nhưng nhiều bạn tỏ vẻ luyến tiếc). Tương tựnhư vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm xúc, nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kì. Bài văn của học sinh hạn chếđược nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc, mà thấm đượm cảm xúc của người viết. Kết hợp hài hòa cả ba yếu tố: xây dựng nội dung, diễn đạt có sử dụng biện pháp nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc, bài văn của học sinh sẽ trởnên sinh động, đạt kết quả cao. Đây là cơ sở, nền móng cho những mầm non văn học trổi dậy và vươn lên xanh tốt. IV/ Hiệu quảđạt được: a.Trước khi áp dụng sáng kiến: Qua khảo sát lớp đầu năm học, tôi nhận thấy rằng đa số học sinh chưa làm tốt được một bài văn miêu tả, học sinh đạt tỷ lệ rất thấp, chỉ có khoảng 40% học sinh là biết làm văn miêu tảở mức độ tương đối chính xác, đúng thể loại, còn lại bài làm của các em rơi vào truờng hợp nội dung sơ sài, bố cục không chặt chẽ. Nhìn chung, lý do chủ yếu là do các em viết văn ít dùng từ ngữ giàu hình ảnh, khô khan, vốn từ các em quá nghèo nàn, 18 https://tieuhoc.net/
nội dung mang tính qua loa lấy lệ. Một số bài ý lặp nhiều mà vẫn không làm nổi bật được nội dung trọng tâm yêu cầu của đề bài. -Trong quá trình dạy Tâp làm văn lớp 5, tôi thấy chất lượng làm văn của học sinh chưa cao, nhất là văn miêu tả. Sau đây là kết quả khảo sát đầu nămở lớp 5B gồm 30 học sinh: Kĩ năng viết văn miêu tả Sốlượng Tỉ lệ Biết viết bài văn đủ 3 phần. 25/30 83,33% Dùng từ ngữ miêu tả chính xác, có 12/30 40% sự quan sát tinh tế. Sử dụng linh hoạt các biện pháp so 5/30 16,66% sánh, nhân hóa trong bài văn. Bài văn miêu tảsinh động, giàu 2/30 6,7% cảm xúc. b.Sau khi áp dụng sáng kiến: Sau một thời gian áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp 5, qua các kết quả kiểm tra, đềtài đã thu được một số kết quả nhất định. Học sinh có những chuyển biến rõ rệt trong việc học kiểu bài miêu tả của chương trình Tập làm văn lớp 5. Cụ thểđiều tra chất lượng làm văn của học sinh lớp 5 đang khảo sát được thể hiện qua bảng số liệu sau: Kĩ năng viết văn miêu tả Sốlượng Tỉ lệ Biết viết bài văn đủ 3 phần. 30/30 100% Dùng từ ngữ miêu tả chính xác, có 20/30 66,67% sự quan sát tinh tế. Sử dụng linh hoạt các biện pháp so 12/30 40% sánh, nhân hóa trong bài văn. Bài văn miêu tảsinh động, giàu 8/30 26,7% cảm xúc. Từ những kết quảđạt được nêu trên, tôi thấy dạy học phân môn tập làm văn ở lớp 5 không những chỉ giúp cho học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, mà còn giúp các em phát triển tư duy, có khảnăng sáng tạo trong viết câu, viết đoạn văn hoặc viết bài tập làm văn hay đạt kết quả. c.Lợi ích thu được sau khi áp dụng sáng kiến: * Đối với học sinh: - Học sinh có thói quen lập dàn ý trước khi làm bài. - Học sinh biết tự tìm hiểu đề, biết lựa chọn từ ngữ thích hợp để viết văn. 19 https://tieuhoc.net/
- Bài văn các em không còn nghèo ý khô khan như trước đây, các em đã biết quan sát đối tượng miêu tả bằng nhiều giác quan. Phát huy được trí tưởng tượng và sáng tạo của học sinh. - Các em biết chọn lọc hình ảnh đặc trưng đểđưa vào bài văn làm cho nội dung bài văn sinh động phong phú. - Đa số học sinh đã mạnh dạn, hứng thú và yêu thích học các tiết Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. - Biết diễn đạt những suy nghĩ của mình bằng lời nói hoặc bài văn một cách mạch lạc, rõ ràng, chất lượng môn học được nâng lên rõ rệt. * Đối với giáo viên: Trong những năm học vừa qua, nhờ thực hiện các biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả nêu trên nên chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đáng kể, sốlượng học sinh dùng từ ngữ miêu tả linh hoạt tăng lên. Quá trình giảng dạy trong phân môn Tập làm văn đã nhẹnhàng hơn. * Đối với tổ chuyên môn: Qua những lần họp Tổchuyên môn tôi đã chia sẻ kinh nghiệm của mình với các giáo viên trong tổvà được các đồng nghiệp đánh giá rất cao. Sau khi đem áp dụng cho từng lớp trong khối thì kết quảthu được hết sức khả quan. Trong giờ học các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè quan sát đối tượng cần miêu tả. Tôi rất vui khi thấy có khá nhiều học sinh đã có cuốn sổtay riêng để ghi những điều quan sát được và những câu văn hay, từ ngữ gợi tả, gợi cảm,…Có thể nói rằng học sinh đã không còn ngại khi học văn miêu tả. Học sinh dùng từ chính xác, sử dụng từ hay biết viết thành câu, kĩ năng viết văn có tiến bộ, nhiều em viết hay được chọn làm bài mẫu đểđọc trước lớp. Thể loại văn miêu tảđược các em thích hơn. * Đối với nhà trường: Với những kết quảđạt được của riêng lớp 5B cũng như của toàn khối 5. Ban giám hiệu nhà trường đã cho áp dụng rộng rãi trong những năm tiếp theo đối với các lớp khối 4,5 trong trường, nhằm rút kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng. Để giúp học sinh tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng, khắc sâu kiến thức và thấy rõ vị trí quan trọng của phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt. V/ Mức độảnh hưởng: 1/ Khảnăng ứng dụng giải pháp: Muốn trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng về tiếng mẹđẻ, tạo cho các em nắm được công cụ giao tiếp và tư duy thì bản thân mỗi giáo viên phải chú ý thực hiện đúng những yêu cầu đề ra của môn Tiếng Việt nói chung, đặc biệt là phân môn Tập làm văn nhằm trau dồi những kiến thức cảm thụvà làm văn hay. Đồng thời không ngừng phát huy, tìm tòi, vận dụng phương pháp giảng dạy sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Với những ý kiến trên tôi đã áp dụng ở khối lớp 5 (từnăm học 2015 - 2016) và hiện tại đạt nhiều kết quả khảquan. Lĩnh vực mang tính phổ biến có thể áp dụng ở trong toàn khối 5, tùy theo mục tiêu từng khối lớp mà giáo viên áp dụng vào một cách tốt nhất. Đề tài này có khảnăng áp dụng cho tất cả các lớp, các trường tiểu học trong tỉnh An Giang. 2/ Những điều kiện cần thiết: Giáo viên: 20 https://tieuhoc.net/
Đểlàm được một bài văn miêu tả học sinh cần được trang bịcác điều kiện: + Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy Tập làm văn. + Chuẩn bị kiến thức phục vụ cho việc làm một bài văn. Kết quả cuối cùng của tiết dạy là học sinh tìm được các tài liệu chi tiết cần thiết chuẩn bị cho việc làm một bài văn theo yêu cầu của đề bài. + Hình thành phương pháp, kỹnăng quan sát gắn với từng thể loại miêu tả. + Tham khảo nội dung sách hướng dẫn giảng dạy để lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức học tập cho phù hợp với đối tượng của lớp mình. +Sưu tầm đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài sâu hơn. Học sinh: - Luôn có ý thức tự học, tích lũy vốn hiểu biết về cuộc sống, các tri thức văn hóa chung thông qua các môn học, đặc biệt phải có sự kiên trì luyện tập các kĩ năng làm bài văn của bản thân. - Tích cực trong mọi hoạt động và tất cả tiết học. - Ngoài các bài văn trong sách giáo khoa thì học sinh nên tìm đọc thêm nhiều thể loại để giúp cho học sinh tích lũy vốn từ và biết lựa chọn từ miêu tả phù hợp của bản thân. Thư viện: Tạo điều kiện để các em học sinh có thểđọc sách thường xuyên ngay tại phòng thư viện, thư viện xanh của trường hoặc ngay tại góc thư viện của mỗi lớp học. Thường xuyên thay đổi các đầu sách mới đặc biệt là các loại sách liên quan đến các thể loại văn học để tạo sựphong phú trong cách đọc của học sinh. Đoàn, đội: Thông qua những lần tổ chức sinh hoạt ngoài giờ, các buổi đi tham quan thực tế, các hoạt động vui chơi trong trường…. để giúp các em rèn luyện kĩ năng quan sát của mình. Qua đó giúp các em có nhiều kiến thức bổích để áp dụng tốt hơn trong quá trình học Tập làm văn . VI/ Kết luận Sau hơn một năm áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhoi nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn miêu tảsinh động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh giỏi văn sẽ không còn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta phải tôn trọng nó, giúp đỡnó để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn. Biết đâu sau này trong các em, sẽcó người trởthành nhà văn, nhà thơ... Có thểnói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽđem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng 21 https://tieuhoc.net/
để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở học kì II và các năm sau, với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp Tiểu học. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳđối tượng học sinh cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành công. Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiếnNgười viết sáng kiến Nguyễn Tấn Nhựt 22 https://tieuhoc.net/
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 4, Lớp 5 hiện hành. 2- Học tốt Tiếng Việt 5 (Tập 1, Tập 2)- Tác giả: Phạm Thị Hồng Hoa. 3- Luyện tập cảm thụvăn học ở Tiểu học- Tác giả: Trần Mạnh Hưởng. 4- Luyện Tập làm văn 5- Tác giả: Đặng Mạnh Thường 5-Rèn kĩ năng Tập làm văn cho học sinh lớp 5- Tác giả: Ts Lê Anh Xuân 6- Thực hành Tập làm văn 5- Tác giả: Trần Mạnh Hưởng- Nguyễn Trí 23 https://tieuhoc.net/