0 likes | 2 Views
Cu00f4ng tu00e1c bu1ed3i du01b0u1ee1ng hu1ecdc sinh giu1ecfi (HSG) cu00e1c mu00f4n vu0103n hu00f3a lu00e0 mu1ed9t nhiu1ec7m vu1ee5 quan tru1ecdng trong viu1ec7c nu00e2ng cao chu1ea5t lu01b0u1ee3ng giu00e1o du1ee5c, tu1ea1o nguu1ed3n lu1ef1c, bu1ed3i du01b0u1ee1ng nhu00e2n tu00e0i cho nhu00e0 tru01b0u1eddng nu00f3i riu00eang, cho u0111u1ecba phu01b0u01a1ng nu00f3i chung. Viu1ec7c phu00e1t hiu1ec7n, u0111u00e0o tu1ea1o vu00e0 bu1ed3i du01b0u1ee1ng, tu1ea1o u0111iu1ec1u kiu1ec7n u0111u1ec3 nhu00e2n tu00e0i u0111u01b0u1ee3c phu00e1t huy tu00e0i nu0103ng, u0111u00f3ng gu00f3p thiu1ebft thu1ef1c vu00e0o su1ef1 nghiu1ec7p xu00e2y du1ef1ng vu00e0 bu1ea3o vu1ec7 Tu1ed5 quu1ed1c lu00e0 mu1ed9t cu00f4ng viu1ec7c ru1ea5t quan tru1ecdng. Nhu01b0 vu00e2y, u0111u00e0o tu1ea1o bu1ed3i du01b0u1ee1ng hu1ecdc sinh giu1ecfi lu00e0 bu01b0u1edbc u0111u1ea7u tiu00ean, lu00e0 vu1ea5n u0111u1ec1 cu1ea7n thiu1ebft vu00e0 cu1ea5p bu00e1ch, u0111u00e1p u1ee9ng yu00eau cu1ea7u cu1ee7a cu00f4ng cuu1ed9c u0111u1ed5i mu1edbi hu1ed9i nhu1eadp u0111u1ea5t nu01b0u1edbc hiu1ec7n nay.
E N D
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TẠI TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT TP VINH –NGHỆ AN MÔN: GIÁO DỤC CÔNG DÂN 1 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT =====*===== SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TẠI TRƯỜNG THPT LÊ VIẾT THUẬT TP VINH –NGHỆ AN Họ và tên giáo viên:Lê Thị Thu Hà Bộ môn Đơn vị công tác : Trường THPT Lê Viết Thuật, TP Vinh, Tỉnh Nghệ An Số điện thoại : 0915 698 356 : GDCD - Tổ: KHXH Năm học: 2019-2020 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
MỤC LỤC Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 2 4. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu .................................................................. 2 5. Thời gian nghiên cứu ........................................................................................ 2 Phần II. NỘI DUNG .............................................................................................. 3 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................. 3 1.1. Vai trò của việc bồi dưỡng học sinh giỏi...... ................................................. 3 1.2. Tổng quan về bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ................... 5 1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân .......................................................................................................... 5 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ......................................................................................... 6 2.1. Thực trạng về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ở trường THPT ......................................................................................................... 6 2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ở trường THPT hiện nay ........................................................ 8 2.2.1. Thuận lợi ..................................................................................................... 8 2.2.2. Khó khăn ..................................................................................................... 8 3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lê Viết Thuật ........................................................ 9 3.1. Tuyển chọn học sinh tham gia đội tuyển học sinh giỏi .................................. 9 3.2. Xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi ............................................. 12 3.3. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính sáng tạo của học sinh trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ....................................................... 17 3.3.1. Phương pháp giải quyết vấn đề ................................................................ 18 3.3.2. Phương pháp động não (công não) ........................................................... 21 3.3.3. Sử dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực ................................................. 23 3.4. Rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh ..................................................... 24 3.4.1. Kỹ năng đọc kỹ đề bài ............................................................................... 24 3.4.2. Kỹ năng nhận dạng đề thi .......................................................................... 25 3.4.3. Kỹ năng làm bài thi ................................................................................... 28 3.4.4. Kỹ năng phân bổ thời gian ........................................................................ 30 4. Kết quả đạt được ............................................................................................. 31 Phần III. KẾT LUẬN .......................................................................................... 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 35 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 36 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
PhầnI. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định “Giáo dục và đạo tạo cùng với Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,là nền tảng và là động lực thúc đẩy CNH –HĐH đất nước. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức, có văn hoá, có kĩ năng nghề nghiệp,gắn học với hành, tài với đức..”. Đảng ta cũng khẳng định: “nhân tài không phải sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu”. Nhiệm vụ xây dựng chiến lược quốc gia về nhân tài và chương trình quốc gia về đào tạo bồi dưỡng nhân tài cũng đã được Đảng ta chú trọng. Để định hướng trên đi vào Giáo dục một cách thiết thực trong nhiều năm qua các cuộc thi Học sinh giỏicấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyệnhay các cuộc thi tìm ra nhân tài theo các hình thức khác nhau luôn được tổ chức và đi vào chiều sâu nhằm chọn ra nhân tài cho đất nước. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG)các môn văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường nói riêng, cho địa phương nói chung.Việc phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng, tạo điều kiện để nhân tài được phát huy tài năng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một công việc rất quan trọng. Như vây, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi làbước đầu tiên, làvấn đề cần thiết và cấp bách, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập đất nước hiện nay. Trong những năm gần đâynhà trường đã xác định rõ vai trò của công tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi nên đã đề ra kế hoạch và phân công cụ thể ngay từ đầu năm học. Bồi dưỡng HSG là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi nhiều công sức của thầy và trò. Qua các kỳ thi HSGtỉnh, môn GDCD đã gặt hái được những thành công nhất định góp phần vào kết quả thi HSG chungcủa toàn trường. Với ý nghĩađó,bản thân tôi luôn quan tâm, tìm tòi trong công tác bồi dưỡnghọc sinh giỏi và bước đầu đãđạtđượcnhững thành tích đángkể, góp phần không nhỏ vào thành tích chung của nhà trường. Chính vì vậy tôi mạnh dạn chia sẻnhững kinh nghiệmthựctếcủabản thân trong công tác bồidưỡng học sinh giỏi và đócũng chính là lí do tôi quyếtđịnhviếtđề tài “Mộtsốbiện pháp nhằm nâng cao hiệuquảbồidưỡnghọc sinh giỏi môn Giáo dục công dân tạitrường THPT Lê ViếtThuật - TP Vinh –NghệAn”. 1 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
2. Mục đích nghiên cứu - Trên cơ sở lí luận trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, đề tài đưa ra một số biện pháp nhằmnâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân tham gia kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh hàng năm tại trường THPT Lê Viết Thuật. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Đội tuyển học sinh giỏi lớp 11 - Phạm vi nghiên cứu: Kết quả HSG tỉnh 5 năm từ năm học 2015 đến 2020 tại trường THPT Lê Viết Thuật. - Một số trường vận dụng nghiên cứu: Trường THPT Dân tộc Nội trú tỉnh; Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng; Trường THPT Cửa Lò II. 4. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu Từ sự vận dụng thành công sáng kiến, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm của mình trao đổi với bạn bè đồng nghiệp trong công tác bồi dưỡng, ôn luyện học sinh giỏi môn GDCD. Kinh nghiệm này dựa chủ yếu vào thực tế hoạt động sư phạm của bản thân mà các nhà nghiên cứu, viết sách chưa đề cập đến. 5. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 2/2019 đến tháng 3/2020 2 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Phần II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1. Vai trò của việc bồi dưỡng học sinh giỏi Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “Đảng và Nhà nước ta phải luôn coi trọng việc chăm lo cho giáo dục, đặc biệt là việc phát hiện và bồi dưỡng tài năng của thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho thế hệ trẻ được phát huy tài năng, sức lực của mình vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc”.Trong bài viết của mình đăng trên báo Cứu quốc, ngày 20-11-1946 bác Hồđã cho rằng: “Chính phủ và mọi người cần phải trọng dụng người hiền năng….Nơi nào có người tài đức, những việc ích nước lợi dân thì phải báo ngay choChính phủ biết. Luật giáo dục của nước ta cũng khẳng định: “Việc bồi dưỡng học sinh đạt kết quả xuất sắc trong học tập nhằm phát triển năng khiếu của các em về một số môn học trên cơ sở bảo đảm giáo dục phổ thông toàn diện”.Chiến lược phát triển giáo dụcViệt namđến năm2020 nêu rõ: “Đảm bảo cả yêu cầu về số lượng, chất lượng, hiệu quả giáo dục.Đồng thời với việc nâng cao chất lượng toàn diện học sinh, sinh viên diện đại trà,cần mở rộng diện đào tạo bồi dưỡng học sinh, sinh viên tài năng để chuẩn bị độingũ nhân lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực vàthế giới ”. Đảng ta xem việc chọn nhân tài, bồi dưỡng nhân tài là một phần quan trọng trong quốc sách phát triển con người, điều đó được thể hiện qua việc chỉ đạo dạy và học trong các nhà trường. Nghị quyết TW2 khoá VIII đã chỉ rõ: “Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là nguồn nhân tài cho đất nước được các nhà trường đặc biệt quan tâm và mọi giáo viênđều có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi”. Việc tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi và thi học sinh giỏi nhằm: “Động viên khích lệ những học sinh và giáo viên trong dạy và học, góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất luợng giáo dục, đồng thời phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước” (Điều 1 - Quy chế thi chọn học sinh giỏi ban hành theo quyết định 3479/1997/QĐ- BGD&ĐT ngày 01/11/1997. Như vậy, Nhân tài, học sinh giỏi là yếu tố tiên quyết, không thể thiếu được đối vớibất kỳ một dân tộc, một quốc gia nào. Vì vậy quá trình phát hiện và tổ chức bồidưỡng nhân tài, bồi dưỡng học sinh giỏi đang được đặt gia và tiến hành trong cácnhà trường và trường THPT Lê Viết Thuật cũng không nằm ngoài qui luật đó. Giáo dục công dân là môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giáo dục nhân cách học sinh. Tầm quan trọng đặc biệt của môn học này trong hệ thống các môn học ở trường phổ thông là ở chỗ môn Giáo dục công dân là một hệ thống các kiến thức về nhiều lĩnh vực, nó góp phần hình thành thế giới quan, nhân sinh quan lành mạnh ở học sinh, giúp học sinh biết phân biệt lẽ phải, trái, biết tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác, biết sống trung thực, 3 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
khiêm tốn, dũng cảm, biết yêu thương và vị tha. Đặc biệt, những kiến thức của môn Giáo dục công dân giúp học sinh hình thành những kỹ năng sống cơ bản để vững vàng bước vào đời: ý thức tổ chức kỷ luật, có thái độ đúng đắn trong việc nhận thức và chấp hành pháp luật và cũng góp phần giúp học sinh có cơ sở giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống. Mặc dầu có tầm quan trọng như vậy, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, chất lượng dạy và học mônGiáo dục công dân trong thời gian qua còn có nhiều bất cập.Đã đến lúc phải có những đánh giá, nhìn nhận thực sự nghiêm túc cả từ phía người dạy lẫn người học để từ đó có giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn học có vị trí đặc biệt quan trọng này, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân, trước hết cần nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò, vị trí của môn học này trong hệ thống các môn học trong trường phổ thông từ đó đề ra các giải pháp cụ thể và có tính khả thi. Đối với người học, cần thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá vai trò của môn học này trong việc trau dồi nhân cách, hoàn thiện bản thân, từ đó xác định đúng động cơ và thái độ học tập. Đối với giáo viên, cần có những nỗ lực trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Dạy học phải theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên, khắc phục thói quen học tập thụ động theo kiểu: Cô giảng - trò nghe, cô hỏi - trò trả lời, cô đọc - trò chép và học thuộc. Trong quá trình dạy giáo viên phải có những cách thức cụ thể trong việc làm “mềm” hoá môn học vốn được xem là khô khan, trừu tượng này bằng những ví dụ sinh động trong đời sống thực tế. Quá trình dạy phải gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống của học sinh, giáo viên cần tăng cường sự dụng các tình huống, các câu chuyện, các hiện tượng thực tế, các vấn đề “nóng” trong xã hội để phân tích, đối chiếu, minh họa cho bài giảng. Đồng thời, cần hướng dẫn, khuyến khích học sinh liên hệ, điều tra, tìm hiểu, phân tích đánh giá các sự kiện trong đời sống của lớp học, nhà trường, địa phương, đất nước. Có thể thay cách thuyết giảng một chiều bằng việc nêu những câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề thảo luận nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong một số tiết học, trong những tình huống cụ thể, để tạo sự hào hứng và cuốn hút học sinh vào bài học, có thể dàn dựng những vở kịch ngắn do chính học sinh thể hiện. Giáo viên cần khuyến khích học sinh nêu thắc mắc của mình trong khi nghe giảng, đặt câu hỏi cho cô, cho bạn, trao đổi, tranh luận, phải huy động, khai thác tối đa kinh nghiệm sống của học sinh, tạo cơ hội và động viên khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến các nhân về vấn đề đang học tạo nên mối quan hệ hợp tác trong giao tiếp giữa cô với trò, trò với trò trong quá trình chiếm lĩnh kiến 4 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
thức. Đồng thời giáo viên cần đầu tư hơn trong việc sưu tầm tư liệu, tranh ảnh minh hoạ, cùng các dụng cụ trực quan tạo ra sự sinh động cho mỗi giờ lên lớp. Có thể nói rằng quá trình dạy một bài giáo dục công dân phải là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo, để thông qua đó, học sinh có thể tự khám phá và nắm vững nội dung bài học. Học sinh sẽ hứng thú, thông hiểu và ghi nhớ những gì học sinh đã nắm được qua hoạt động chủ động, nỗ lực của chính mình. Từ đó sẽ làm cho học sinh yêu thích môn Giáo dục công dân hơn, đam mê với môn học và cũng làm cho giáo viên có điều kiện để chọn ra những em học sinh giỏi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi cấp Tỉnh môn Giáo dục công dân hàng năm. 1.2. Tổng quannghiên cứuvề bồi dưỡng học sinh giỏimôn Giáo dục công dân Trong những năm gần đây,các đề tài nghiên cứubồi dưỡng học sinh giỏi khá nhiều. Các môn học, các lĩnh vực khác nhau đều có giáo viên nghiên cứu và có những bài học kinh nghiệm cho đội ngũ giáo viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi. Ở tỉnh Nghệ An, các đề tài về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trên các lĩnh vực Văn, Toán, Lý, Hóa...được nhiều giáo viên quan tâm. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD còn rất ít. Nếu có, các giáo viên mới chỉ nêu lên một số kinh nghiệm chưa khái quát thành hệ thống đầy đủ. Nhận thấy, đây là lĩnh vực mà bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm. Hơn nữatrong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả cao nên tôi khái quát đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD tại trường THPT Lê Viết Thuật trong bối cảnh hiện nay là vấn đề mới làm đề tài nghiên cứu của mình. 1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân Trong giai đoạn hiện nay đất nước của chúng ta đang đứng trước một xã hội tương lai: Xã hội thông tin và xã hội học tập, mà ở đó mỗi một con người phải xác định cho mình một tương lai trên cơ sở của một nền giáo dục tốt, để từ đó hình thành nên những năng lực, phẩm chất tốt đẹp của một người công dân xứng đáng là là vị trí trung tâm của sự phát triển. Bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ mũi nhọn quan trọng trong trường phổ thông. Để đạt kết quả tốt trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây: - Đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục: Tính khoa học trong quá trình dạy học môn GDCDtrước hết bằng chính nội dung dạy học. Tính khoa học được thể hiện trong phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học.Đảm bảo tính khoa học trong dạy học là dạy đúng, dạy đủ những tri thức 5 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
khoa học được quy định trong chương trình cấp học.Tính giáo dục là thuộc tính bản chất của quá trình dạy học nhằm đạt tới sự phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức của con người mới.Đảm bảo tính thống nhất giữa khoa học và giáo dục là trong quá trình dạy học đồng thời giúp học sinh nắm tri thức khoa học và hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh. Vì vậy, yêu cầu mỗi giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, kĩ năng ngôn ngữ, tổ chức hợp lí các hoạt động dạy học, xử lí linh hoạt, sáng tạo các tình huống có vấn đề.Bằng những kiến thức, giáo viên bồi dưỡng cho học sinh một cách có hệ thống giúp học sinh có tình cảm đúng đắn đối với môn học. Ngược lại, tình cảm yêu mến môn học giúp các em có ý thức cao hơn trong quá trình bồi dưỡng. - Đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính thực tiễn: Đối với môn GDCD, tính thực tiễn chiếm vị trí quan trọng trong quá trình dạy học. Mọi lý luận học sinh học được nếu không có tính thực tiễn thì đó chỉ là lý luận suông. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng giáo viên không chỉ giúp học sinh nắm vững kiến thức mà cònhình thành kĩ năng vận dụng thành thạo nhằm góp phần cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân.Qua thực tiễn, nó khẳng định tính đúng đắn của khoa học. - Đảm bảo sự thống nhất giữa dạy và học Trong quá trình dạy học, hoạt động học đóng vai trò chủ đạo. Học sinh tự giác, tự lực tiếp thu kiến thức dưới tác động của giáo viên. Thông qua vai trò của người giáo viên, học sinh phát huy được tính tự giác, tích cực, ham mê tìm kiến thức mới. - Đảm bảo tính khoa học với tính vừa sức: Đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng khi bồi dưỡng học sinh giỏi. Bởi yêu cầu, nhiệm vụ học tập phải phù hợp với trí tuệ học sinh. Dạy học phù hợp khả năng, năng lực, trình độ phát triển của đối tượng học sinh, đảm bảo học sinh đều được phát triển ở mức cao nhất. Những kiến thứcchúng ta truyền tải đến học sinh phải được học sinh tiếp thu trên cơ sở phát huy hết khả năng của mình.Bồi dưỡng học sinh giỏi không phải là dạy những bài quá khó, những lý luận xa vời mà phải bắt đầu từ dạy chuẩn kiến thức, kỹ năng theo khung chương trình giới hạn mà kế hoạch của Sở Giáo dục đã ban hành từng khối lớp.Trên cơ sở chuẩn kiến thức, giáo viên có thể mở rộng, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Nếu đưa những kiến thức quá cao đối với các em, các em không những không hiểu mà còn dẫn đến việc chán học, lâu dần các em sẽ cảm thấy quá áp lực, xa vời không hứng thú với việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Hoặc nếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức theo chuẩn thì khó có học sinh giỏi và không phát huy được tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ở trường THPT 6 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Như chúng ta đã biết, để có học sinh giỏi đạt kết quả cao trong các kỳ thi do nhiều yếu tố: Tố chất học sinh, sự quan tâm của gia đình, nhà trường và xã hội, ý thức học tập của học sinh, việc bồi dưỡng và không ngoại trừ yếu tố may mắn. Tuy nhiên chúng ta không chỉ chờ đợi và cầu mong ở sự may mắn bởi vì yếu tố may mắn chỉ là một phần rất nhỏ. Phương châm có câu: "Trở thành nhân tài một phần do tài năng còn 99 phần là ở sự tôi luyện". Theo quan điểm của tôi, điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải trang bị cho các em vững vàng kiến thức trước khi đi thi. Do vậy việc bồi dưỡng vẫn là yếu tố quan trọng hơn cả. Nhưng chúng ta cần bồi dưỡng học sinh giỏi những nội dung gì?bồi dưỡngnhư thế nào cho đạt hiệu quả? điều đó cần nhìn rõ thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi hiện nay. Trong những năm gần đây, môn GDCD đã được đưa vào chương trình thi Trung học phổ thông quốc gia. Chính vì vậy, giáo viên, học sinh và phụ huynh quan tâm hơn đến môn học này. Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn rằng một thực tế hiện nay là một bộ phận học sinhít chú ý đến bộ môn GDCD. Tự bản thân các em coi đó là môn phụ. Bởi vậy không ít các giờ học GDCD thường diễn ra tẻ nhạt, nặng nề, học sinh ít quan tâm, dẫn đến không ít giáo viên cảm thấy chán nản, mất hứng thú khi bước lên bục giảng. Cũng chính vì điều đó nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD. Một vấn đề luôn được đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng họctập bộ môn ? Làm thế nào để học sinh yêu thích với bộ môn GDCD? Làm thế nào để mỗi giáo viên khi bước lên bục giảng đều cảm thấy yêu nghề,được học sinh coi trọng? Làm thế nào để học sinh tham gia kỳ thi học sinh giỏi đạt kết quả đáng khích lệ? Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng nỗ lực cố gắng để đem lại kết quả cao cho bộ môn. Có thể thấy công tác bồi dưỡng HSG GDCD ởcác trường THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An và trường THPT Lê Viết Thuật hiện nay đang gặp một số khó khăn nhất định đó là công tác tuyển chọn học sinh bồi dưỡng, xây dựng chương trình, nội dung bồi dưỡng, quy trình bồi dưỡng giảng dạy, tài liệu bồi dưỡng, công tác kiểm tra, kiểm định chất lượng... Bởi lẽ trong thực tế, theo quan niệm sai lầm của một số người: môn Toán, Văn, Ngoại ngữ mặc nhiên được coi là “chính”, các môn khác bị coi là “phụ”, riêng môn Giáo dục công dân là “rất phụ”. Quan niệm “chính” - “phụ” không chỉ có ở phụ huynh, mà còn có trong cả người học, thậm chí ngay cả trong đội ngũ giáo viên. Mặt khác đa số các học sinh không muốn tham gia bồi dưỡng học sinh giỏivới các lý do: đây không phải là môn khối, tâm lí ngại thi môn Giáo dục công dân, thi môn này không oai với các bạn, mất thời gian,… Thực tế đã có nhiều trường hợp xảy ra đối với bản thân tôi trong quá trình lấy danh sách đội tuyển tham gia học sinh giỏi. Học sinh khi được giáo viên chọn thi môn Giáo dục công dântỏ ra không thích, thậm chí trả lời rất thẳng thắn “Em không thi môn Giáo dục công dân đâu cô ạ!” còn có những trường hợp phụ huynh khi biết con được giáo viên chọn đi thi môn Giáo dục công dân 7 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
phụ huynh cũng đã có phản ứng liền là không đồng ý vì sợ mất thời gian và làm ảnh hưởng đến các môn khối. Ngay cả trong đội ngũ giáo viên cũng có những người có sự tác động đến học sinh của mình không muốn cho tham gia thi môn Giáo dục công dân. Chính những khó khăn đó luôn đènặng trên vai và tâm trí của người giáo viên môn Giáo dục công dân khi tham gia dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả chất lượng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông. 2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ở trường THPT hiện nay 2.2.1. Thuận lợi Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCDở các trường THPT trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung và ở trường THPT Lê Viết Thuật nói riên hiện nay có thế thấy có rất nhiều thuận lợi: Thứ nhất, bên cạnh nhiệm vụ chuyên môn thường xuyên, Ban giám hiệu các trường THPT đã rất quan tâm đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây được coi là chất lượng mũi nhọn để xây dựng thương hiệu của nhà trường, vì vậy, lãnh đạonhà trường đã có sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát kịp thời, có những kế hoạch cụ thể và lâu dài cho công tác bồi dưỡng HSG. Thứ hai, đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiều thầy, cô có kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng HSG và đặc biệt là có nhiệt huyết lớn trong công tác bồi dưỡng HSG. Ở trường THPT Lê Viết Thuật 4/4 giáo viên đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi đều có kết quả tốt. Đây là yếu tố quan trong tạo nên kết quả học sinh giỏi tỉnh hàng năm cao. Thứ ba, nhận thức của phụ huynh, học sinh đã có nhiều thay đổi đối với môn học. Đặc biệt có nhiều em học sinh muốn tham gia thi chọn vào đội tuyển học sinh giỏi tỉnh; phụ huynh quan tâm nhiều hơn đến môn học. Thứ tư, để hỗ trợ cho công tác dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, nhà trường đã có sựu quan tâm đặc biệt và có những biện pháp hỗ trợ đúng mức, tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh tham gia bồi dưỡng như có chế độ thưởng cho giáo viên và học sinh ngoài quy định thưởng của tỉnh. Đólà một động lực để giáo viên và học sinh thấy mình có trách nhiệm hơn với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. 2.2.2. Khó khăn Trong công tác bồi dưỡng HSG của một sốtrường thường gặp những hạn chế về kết quả. Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu như sau: - Đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa phải hoàn thành chỉ tiêu chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm. Do đó việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị hạn chế. 8 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
- Công tác tự nghiên cứu, tự bồi dưỡng để nâng cao chất lượng dạy học sinh giỏi đòi hỏi nhiều thời gian, tâm huyết. Cùng với đó trách nhiệm lại nặng nề, áp lực công việc lớn cũng là những khó khăn không nhỏ với các thầy cô giáo tham gia BD HSG. - Ngoài ra, không phải không có trường hợp có những thầy, cô giáo có chuyên môn giỏi và có kinh nghiệm nhưng chưa thật mặn mà với công tác BDHSG vì nhiều lí do khác nhau. - Học sinh luôn đứng trước sự lựa chọn giữa học chuyênsâu để thi HSG và học để thi Đại học, các em không yên tâm vì phải mất nhiều thời gian và ảnh hưởng đến kết quả học tập ôn thi Đại học sau khi thi HSG. - Bên cạnh đó nội dung bồi dưỡng thiếu định hướng và thiếu tính liên thông trong hệ thống chương trình. Tất cả giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn, tự nghiên cứu và tự sưu tầm tài liệu;Học sinh, một số không yên tâm khi tham gia lớp bồi dưỡng HSG vì phải mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến sức khỏe và kết quả học tập chung ở trên lớp; Giáo viên dạy bồi dưỡngvẫn phải hoàn tất công tác giảng dạy như các giáo viênkhác, đôi khi còn kiêm nhiệm nhiều công tác khác như: chủ nhiệm, tổ trưởng bộ môn, công đoàn… đó là một thực tế do BGH lúc nào cũngmuốn giao công tác cho những giáo viêntốt, có uy tín. Chính vì lý do đó, việc đầu tư cho công tác bồi dưỡngHSG cũng có phần bị hạn chế;Việc giáo viên dạy bồi dưỡng phải dựa trên đối tượng HS phải “đạt yêu cầu” mới được chọn để bồi dưỡng. Cho nên việc chọn lựa cần đúng đốitượng. Đó là công việc phát hiện rồi chọn lọc và phân loại. 3. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quảbồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lê Viết Thuật 3.1. Tuyển chọn học sinh tham gia đội tuyển học sinh giỏi Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi người thầy đóng vai trò quan trọng nhưng học sinh là yếu tố quyết định sự thành công. Thông thường những em có tố chất thông minh, học lực khá - giỏi bao giờ cũng đăng ký vào đội tuyển các môn học theo khối như: Toán, Lý, Hoá, Văn, Ngoại ngữ… rồi cuối cùng mới đến GDCD. Đó cũng là điều dễ hiểu. Vậy làm thế nào để học sinh say mê, thích học môn GDCD? Điểm xuất phát phải bắt đầu từ người thầy. Thầy phải thực sự coi bộ môn mình dạy như cái nghiệp của mình để chuyên tâm gắn bó và sáng tạo không ngừng. Ngoài năng lực truyền thụ tri thức lí luận khoa học, thầy phải nhập vai là minh chứng sống động trong thực tiễn để học sinh thấy được sự thú vị cũng như ý nghĩa của bộ môn có tính định hướng và tính giáo dục cao. Niềm say mê ấy phải được bộc lộ qua từng bài giảng, trong từng câu chuyện đời thường và giải quyết những tình huống xảy ra trong thực tế cuộc sống. Vì thế tôi nhận thấy, giáo viên dạy độituyển môn GDCD phải là người truyền được “lửa” cho học sinh. Tức là phải khơi dậy ở các em sự yêu thích môn 9 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
học, niềm tin và lòng say mê để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn và có quyết tâm thi đạt kết quả cao. Có thể nói, đây là khâu quan trọng nhất tác động đến tâm lý học sinh thực sự có hiệu quả vì nó quyết định việc các em sẽ học và thi như thế nào. Để làm được điều này, theo tôi giáo viên vừa đóng vai trò là người thầy đồng thời cũng là người bạn lớn của các em, để phân tích và chỉ ra cho các em thấy được những lợi thế khi tham gia đội tuyển học sinh giỏi. Đó chính là phương pháp học như thế nào để nhớ nhanh, nhớ kỹ và nhớ chính xác nhất. Điều này đặc biệt quan trọng và cần thiết đối với kiến thức các môn xã hội. Ngoài ra, còn giúp các em kỹ năng xác định đề, phân tích đề, khả năng lập luận tư duy, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đềtrong các môn khoa học tự nhiên. Và điều quan trọng hơn đó là các em được trải nghiệm phương pháp học tập cũng như tâm lý khi bước vào kỳ thi, từ đó có sự điều chỉnh bổ sung phù hợp kịp thời. Có thể nói, đó chính là những bước đi ngắn giúp các em tiến đến các kỳ thi nói chung và kỳ thi HSG nói riêng. Ngoài phương pháp truyền thống là cho học sinh tự đăng ký, qua từng tiết học, từng bài kiểm tra đánh giá, giáo viên cần phát hiện những học sinh có khả năng trình bày bài, khả năng vận dụng và giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống, cách lập luận tốt và thông qua giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn giới thiệu để lựa chọn, độngviên các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi cấp trường tạo nguồn đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh. Từ nguồn học sinh như trên, sau khi thi học sinh giỏi cấp trường tôi tiến hành lựa chọn danh sách đội tuyển, theo thang điểm từ cao xuống thấp và lấy từ 3 đến 5 em. Có thể nói rằng việc chọn nguồn học sinh giỏi và thành lập đội tuyển là khâu đầu tiên có vai trò rất quan trọng trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Bởi vì bên cạnh vai trò hướng dẫn của giáo viên thì học sinh là yếu tố quyết định đến sự thành công. Tuy nhiên việc chọn nguồn lại là một vấn đề gặp rất nhiều khó khăn đối với bộ môn của tôi. Cụ thể: - Về phía phụ huynh học sinh: Đa số tâm lí của phụ huynh không muốn cho con mình thi môn Giáo dục công dân. Bản thân tôi đã từng gặp những phụ huynh như vậy trong thực tế, thậm chí khi tôi gọi điện trao đổi họ còn từ chối một cách thẳng thắn. - Về phía học sinh: Học sinh cảm thấy môn học này khó vì kiến thức khô khan, khó hiểu cụ thể như kiến thức của phần kinh tế, phần chính trị - xã hội… Tâm lí ngại sợ các bạn trêuvì không phải thi môn chính. Có nhiều em khi được chọn vào đội tuyển Văn, Sử, Địa rất vui vẻ nhưng nếu được chọn vào đội tuyển thi môn Giáo dục công dân thì không vui lắm. - Về phía giáo viên bồi dưỡng: Ngoài những khó khăn gặp phải về phía phụ huynh, học sinh như đã nêu trên thì trong quá trình chọn nguồn vẫn còn không ít những khó khăn khác. Bởi lẽ thông thường các em có tố chất thông minh, học lực khá, giỏi đều muốn đăng kí dự thi vào các đội tuyển Toán, Văn, 10 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Ngoại ngữ, Sử, Địa… Do vậy việc chọn nguồn học sinh giỏi môn Giáo dục công dân bao giờ cũng là diễn ra sau cùng, các môn chọn ngược chọn xuôi, thậm chí loại ra khi đó mới đến lượt môn Giáo dục công dân. Khi giáo viên đã chọn được rồi cũng đâu dễ dàng để học sinh theo mình và đi thi cho mình. Đứng trước những khó khăn đó bản tôi luôn trăn trở để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất và cuối cùng tôi đã có những bước đầu thành công trong việc chọn nguồn. Ngoài ra, trong quá trình bồi dưỡng tôi còn tiếp tục thi khảo sátít nhất ba lần để đánh giá chính xác khả năng của từng em. Từ đó có thể lấy bổ sung thêm hoặc loại bớt một số em không tiến bộ trong đội tuyển. Như vậy, để chọn đội tuyển một cách hiệu quả cần thực hiện tốt các bước sau đây: Thứ nhất, Người giáo viên phải làm cho học sinh hiểu và nhận thức đúng về tầm quan trọng của môn Giáo dục công dân, yêu môn học, say mê từng tiết học. Muốn vậy giáo viên phải thật sự coi môn mình dạy như là một cái nghiệp của mình, chuyên tâm gắn bó, trau dồi chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, thiết kế bài giảng đa dạng, sáng tạo tránh nhàm chán cho học sinh. Từ đó sẽ cuốn hút học sinh khiến cho các em thích thú với môn học. Hầu hết các tiết dạy của tôi luôn diễn ra sôi nổi, học sinh phát huy hết năng lực của mình. Trên cơ sở đó tôi sẽ dễ dàng phát hiện ra những em học sinh có tố chất tốt, có tư duy thông minh động viêncác em vào nguồn bồi dưỡng của mình. Thứ hai, khi đã tìm được nguồn học sinh giỏi thì lúc này tôi nghĩ giáo viên phải là người truyền lửacho học sinh, truyền sự say mê, niềm đam mê của mình cho học sinh.Khơi dậy trong các em niềm tin, tạo ra động lực để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn và có quyết tâm cao. Giáo viên phân tích cho các em những lợi thế khi được chọn vào đội tuyển thi học sinh giỏi tỉnh. Khi tham gia thi học sinh giỏi giúp các em có cơ hội để thể hiện mình. Hệ thống kiến thức môn Giáo dục công dân giúp cho các em vận dụng rất nhiều trong cuộc sống như các kiến thức phần đạo đức, phần kinh tế. Khi tham gia kỳ thi học sinh giỏi các em có cơ hội để thể hiện mình, sẽ có những sự trải nghiệm thú vị, rèn luyện cho các em sự tự tin, có cơ hội gặp gỡ, tranh tài với các bạn đến từ những ngôi trườngcó tiếng trong tỉnh. Đặc biệt qua kỳ thi đó cũng chính là bước khởi đầu các em rèn luyện tâm thế thi cử để bước vào ký thi đại học với tâm thế tự tin hơn. Thứ ba, Việc chọn nguồn nên tập trung ở các lớp có nhiều học sinh khá giỏicủatrường. Bởi vì những lớp này học sinh có sự cạnh tranh trong học tập cao. Mặt khác các em được chọn phải rất tâm huyết, có lòng đam mê, có niềm tin, có bản lĩnh. Đối với bản thân tôi ngoài việc các em có kĩ năng nhớ tốt thì còn phải có tư duy sáng tạo biết vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, các tình huống trong cuộc sống. Bởi lẽ đặc trưng của bộ môn Giáo dục công dân về kiến thức được vận dụng vào thực tiễn rất nhiều. Sau khi đã phát hiện nguồn tôi động viên các em tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi cấp trườngvà tiến hành 11 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
quan sát, bồi dưỡng các em. Thông thường việc lập đội tuyển diễn ra sau học kì I của lớp 10 và đội tuyển chính thức thì sau học kì II của lớp 10 sẽ đánh giá và chốt danh sách đội tuyển học sinh giỏi. Tất nhiên muốn chọn được đội tuyển có chất lượng thì giáo viên phải có những lần khảo sát thực chất để đảm bảo tính khách quan, chính xác. Đề ra phải chuẩn, chấm và chữa kịp thời thì mới đánh giá đúng năng lực học sinh. 3.2. Xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những yếu tố quan trọng để người giáo viên xác định được nhiệm vụ của mình dạy cho học sinh nội dung gì và dạy như thế nào. Để thực hiện nhiệm vụ này,giáo viên cần căn cứ vào kế hoạch của Sở Giáo dục&Đào tạo, nhiệm vụ của nhà trường về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, khung chương trình và cấu trúc đề thiđể xây dựng chuyên đề bồidưỡng cho đúng trọng tâm kiến thức. Cụ thể, với kinh nghiệm của nhiều năm qua, tôi đã xây dựng hệ thống chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi như sau: Chuyên đề 1: Công dân với đạo đức Chuyên đề 2: Công dân với tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình. Chuyên đề 3: Công dân với cộng đồng Chuyên đề 4: Công dân với đất nước Chuyên đề 5: Công dân với nhữngvấn đề cấp thiết của nhân loại. Chuyên đề 6: Công dân với việc tự hoàn thiện bản thân Chuyên đề 7: Công dân với kinh tế. Chuyên đề 8: Công dân với các vấn đề về chính trị - xã hội. Chuyên đề 9: Công dân với việc hình thành lý tưởng sống. Chuyên đề 10: Công dân với những vấn đề xã hội hiện nay. Với 10 chuyên đề xây dựng theo cấu trúc thi học sinh giỏi đã khái quát toàn bộ khung chương trình thi. Trên cơ sở đó có sự phân bố thời gian hợp lý để học sinh có khả năng tiếp thu đầy đủ nội dung đã xây dựng. Mỗi chủ đề được xây dựng theo trình tự sau: - Mục tiêu của chủ đề - Kiến thức, kĩ năng cần bồi dưỡng: bao gồm kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng và nâng cao, kĩ năng thực hành. - Phương pháp trả lời cho từng dạng đề: có chú ý đến những phương pháp trả lời khác nhau. 12 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
13 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
- Câu hỏi/Bài tập mẫu. - Câu hỏi/Bài tập luyện tập gồm câu hỏi/bài tập cơ bản, câu hỏi/bài tập nâng cao - Đề kiểm tra hết chủ đề. - Rút kinh nghiệm giảng dạy. - Sưu tập các bộ đềđã sử dụng làm tài liệu tham khảo. Ví dụ: Xây dựngchuyên đề: Công dân với đạo đức - Mục tiêu: Học sinh nắm được vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình, xã hội. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức. + Về kỹ năng: Học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học để giải quyết những tình huống trong thực tiễn. Biết nhận diện được các phạm trù đạo đức từ những tình huống, bài tập. + Về kiến thức: Quan niệm về đạo đức; Phân biệt đạo đức với pháp luật; đức đối với cá nhân, gia đình và xã hội. - Thời gian bồi dưỡng: 2 buổi. Buổi 1: Đạo đức là gì? Phân biệt đạo đức với pháp luật. Vai trò của đạo nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc. Buổi 2: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học: Nghĩa vụ, lương tâm, Ẩn có viết “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai”. - Một số câu hỏi, bài tập tình huống: Câu 1: Trong bài hát “Một đời người, một rừng cây” nhạc sĩ Trần Long Dựa vào kiến thức đã học, em hãy làm rõ ý nghĩa của lời bài hát trên. Câu 2: H là con lớn trong gia đình. H không những là học sinh giỏi của lớp và còn là người con ngoan, luôn yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với bố mẹ. Những khi ở nhà, ngoài công việc học hành, H còn thường xuyên giúp bố mẹ trong một số công việc gia đình. Ai cũng khen H là người chăm chỉ và ngoan ngoãn. Khi nói về H, các bạn trong lớp có các ý kiến khác nhau: - Một số bạn nói việc H yêu quý bố mẹ, kính trọng và giúp đỡ bố mẹ khà thực hiện nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật. - Một số bạn khác lại cho rằng đấy chẳng phải là nghĩa vụ theo pháp luật mà là xuất phát từ tình cảm của H, là hành vi xử sự theo chuẩn mực đạo đức. 1. Quan điểm của em về các ý kiến trên. 14 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
2. Trình bày mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật. Câu 3: Câu chuyện: Thượng đế và con người. “Thượng đế lấy đất sét nặn ra con người. Khi Ngài nặn xong vẫn còn thừa ra một mẫu đất. - Còn nặn thêm cho mày cái gì nữa, con người? –Ngài hỏi. Con người suy nghĩ một lúc: có vẻ như đã đầy đủ chân, tay, đầu..., rồi nói: - Xin Ngài nặn cho con hạnh phúc. Thượng đế dù đã thấy hết, biết hết nhưng cũng không hiểu được hạnh phúc là gì. Ngài trao cục đất cho con người và nói: - Này, tự đi mà nặn lấy hạnh phúc cho mình. Hỏi: Dựa vào kiến thức đã học em hãy làm rõ thông điệp từ câu chuyện trên? Câu 4: Trong cuộc chiến chống lại quân Nguyên Mông lần thứ 2 tháng 1 năm 1285, Trần Bình Trọng đã tổ chức cuộc đánh chặn ngay tại bãi Thiên Mạc. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, Trần Bình Trọng bị bắt. Sau khi bắt được Trần Bình Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thông tin, dọa nạt, dụ dỗ ông. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục. Khi được hỏi có muốn làm vương đất Bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi” 1. Câu chuyên trên thuộc về phạm trù nào của Đạo đức học? Hãy giải thích. 2. Em rút ra được bài học gì từ câu chuyện đó? Câu 5: Trong giờ kiểm tra môn Sinh, có một số câu hỏi lý thuyết, T có nhớ nhưng không chắc chắn lắm. Ngồi bên cạnh, bạn M đã làm xong, T chỉ cần liếc qua nhanh là có thể “giải quyết” được. Và còn cách khác nữa: Cô giáo đang ngồi trên bục giảng, không hề chú ý về hướng T nên em có thể thao tác thật nhanh gọn và an toàn, để rồi T sẽ được điểm cao. Thế nhưng…T không làm như vậy. Nộp bài rồi, mấy bạn trong lớp nói T dại thế, giở sách một chút thì có ảnh hưởng gì đến đạo đức đâu! Nhưng T không nghĩ thế. Em cảm thấy thật thanh thản trong lòng! 1. Hành vi của T thuộc phạm trù nào của đạo đức học? 2. Tại sao mặc dù làm bài chưa thật tốt nhưng T lại cảm thấy thanh thản trong lòng? - Cách trả lời các dạng đề: Câu 1, câu 2: Học sinh vận dụng kiến thức về nghĩa vụ để nêu được ý nghĩa của lời bài hát và nội dung yêu cầu của đề thi. Câu 3: dựa vào kiến thức về hạnh phúc để giải thích và nêu thông điệp từ câu chuyện trên. Hạnh phúc là tự mỗi người đấu tranh, tìm kiếm mới có được. Hạnh phúc không phải do thần linh, thượng đế hay ai đó ban phát cho. Học sinh 15 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
biết liên hệ đến bản thân và trả lời câu hỏi: bản thân làm thế nào để có hạnh phúc? Câu 4: Dựa vào yêu cầu của câu hỏi để trả lời. Nội dung câu chuyện trên đề cập đến phạm trù danh dự. Trên cơ sở kiến thức học sinh giải thích và nêu ý nghĩa câu chuyện. Câu 5: Tình huống đề cập đến phạm trù Lương tâm. Học sinh giải thích được tình huống và lần lượt trả lời các câu hỏi. Qua đó liên hệ đến trách nhiệm của bản thân phải làm gì để lương tâm luôn thanh thản. - Sau thời gian 2 buổi dạy học sinh nắm vững kiến thức và biết vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết tình huống thực tiễn, giáo viên kiểm tra học sinh bằng cách cho học sinh làm bài. Thời gian kiểm tra 30 phút cho một câu hỏi. Qua đó sẽ củng cố kiến thức cho các em học sinh và rèn luyện được kỹ năng làm bài. Thông qua việc xây dựng chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi tôi nhận thấy: Đây là bước quan trọng quyết định đến kết quả thi của học sinh. Nếu người giáo viên không có kế hoạch bồi dưỡng, không nắm chắc cấu trúc, yêu cầu của đề thi học sinh giỏi, thấy cái gì hay, cái gì khó thì dạy mà không có hệ thống thì sẽ dẫn đến học sinh không khái quát đượckiến thức, nội dung, làm cho học sinh hoang mang, không khắc sâu nội dung giáo viên hướng dẫn. Học sinh nắm nội dung giáo viên hướng dẫn một cách logic, rèn luyện được kỹ năng làm bài. Khi tôi xây dựngchuyên đề theo hệ thống đã phủ kín hết toàn bộ chương trình theo yêu cầu, các dạng đề thi học sinh giỏi. Vì vậy, khi học sinh bước vào kỳ thi cho dù bắt gặp đơn vị kiến thức nào, dạng đề nào thì học sinh không bị ngợp mà các em vẫn rất tự tin để làm bài. Tuy nhiên, thông qua việc xây dựng chuyên đềcũng cần lưu ý rằng, sau bước xây dựng chuyên đề bồi dưỡng, giáo viên phải có kế hoạch dạy phù hợp, chuẩn bị tài liệu chu đáo. Giáo viên cần cung cấp và hướng dẫn tài liệu cho học sinh. Đối với bộ môn này thì thực sự mà nói tài liệu hầu như không có gì nhiều ngoài sách giáo khoa giáo dục công dân 10 và giáo dục công dân 11. Do đó ngoài việc giáo viên giới thiệu chương trình sách giáo khoa, các loại sách tham khảo thì giáo viên phải tự tìm tòi nguồn tài liệu bằng cách truy cập Internet để tìm tài liệu, khai thác các thông tin để có thể vận dụng trong quá trình giảng dạy. Ngoài ra sưu tầm các quyển sách về các tình huống đạo đức, các câu chuyện đạo đức, các tình huống trong thực tiễn cuộc sống, các vấn đề trong xã hội để vận dụng kiến thức vào nhằm giải quyết các vấn đề đó. Đồng thời phải sưu tầm các bài văn nghị luận xã hội hay về các vấn đề đạo lí hoặc các vấn đề xã hội để phục vụ cho quá trình dạy bồi dưỡng. Bởi vì đề thi môn Giáo dục 16 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
công dân hướng vận dụng rất cao và có một câu nghị luận xã hội về các vấn đề đạo đức, đạo lí hoặc các vấn đề trong xã hội… Trong quá trình bồi dưỡng, trên cơ sở chuyên đề xây dựng, người giáo viên cầndạy học sinh nắm chắc chắn kiến thức cơ bản rồi mới dạy nâng cao. Học sinh phải nhớ kiến thức của từng bài nhuần nhuyễnthì mới có khả năng giải quyết tình huống vận dụng trong thực tiễn. Sau khi học sinh nhớ các kiến thức cơ bản thì giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh biết cách giải quyết, khai thác một đơn vị kiến thức, một bài tập hay vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề đặt ra. Từ đó rèn luyện cho các em khả năng tư duy logic, tư duy độc lập sáng tạo và biết cách tương tự hóa, mở rộng hóa, tổng quát hóa một vấn đề của kiến thức. Giáo viên bồi dưỡng không được nhồi nhét kiến thức cho các em một cách thụ động mà phải dạy những kiến thức các em cần phù hợp theo từng cấp độ từ thấp đến cao. Đừng hiểu nhầm học sinh giỏi, cái gì các em cũng biết, cái gì các em cũng dễ dàng tiếp thu. Vì vậy giáo viên bồi dưỡng không nên giao cho các em những nhiệm vụ bất khả thi mà giao bài tập hay nhiệm vụ phải phù hợp với từng đối tượng học sinh, để tạo niềm tin, say sưa, đam mê, hứng thú trong học tập cho các em. Bên cạnh đó giáo viên cần nhắc nhở học sinh phải có thái độ học tập nghiêm túc, ghi bài và làm bài đầy đủ, có đầy đủ tài liệu học tập theo hướng dẫn của giáo viên, trong đó bao gồm các bài tập hay, các đề và đáp án, các kiến thức tự tìm hiểu, đúc kết sau một quá trình học tập,… Những ghi chép này rất cần thiết cho việc học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức của học sinh giỏi. 3.3. Sử dụng phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính sáng tạo của học sinhtrong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Phương pháp dạy học tích cực làcác biện pháp, cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Với cách dạy này đòi hỏi giáo viên phải có bản lĩnh, chuyên môn tốt và kiên trì xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Tuy nhiên, khi đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. Phương phápdạy họctích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh chóng, với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp họcnhư thế nào mới có hiệu quả. Bên cạnh đó hướng dẫn học sinh tự học cũng là một yếu tố cốt lõi để có hiệu quả. 17 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Nếu rèn luyện cho người học có đượcphương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự họcthì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính tư duy độc lập sáng tạo của học sinh là rất cần thiết và giữ vai trò quyết định đến kết quả thi của các em học sinh. Bởi lẽ khi giáo viên rèn luyện cho học sinh tư duy độc lập, sáng tạo thì học sinh có thể làm chủ trong mọi tình huống.Đặc biệt khi gặp những câu hỏi khó, học sinh không lúng túng mà các em có thể bình tĩnh, đủ tự tin để chinh phục. Các phương pháp dạy học tích cực tôi thường sử dụng trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi đó là: phương pháp động não, phương pháp giải quyếtvấn đề, phương pháptình huống kết hợp với một số kỹ thuật dạy học tích cực để tăng thêm hiệu quả. 3.3.1. Phương pháp giải quyết vấn đề Đây là phương pháp dạy họctrong đó giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là "tình huống gợi vấn đề" vì "Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề". Căn cứ vào đề thi học sinh giỏi tỉnh hàng năm, tôi nhận thấy rằng việc áp dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề rất phù hợp và hiệu quả trong qua trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. Phương pháp dạy học này rất quan trọng giúp cho các em học sinh biết nhận diện và giải quyết vấn đề. Ví dụ khi dạy ở chuyên đề 1: Công dân với đạo đứcvới chủ đề Quan niệm về đạo đức giáo viên đã đưa ra tình huống có vấn đề: “H là con lớn trong gia đình. H không những là học sinh giỏi của lớp và còn là người con ngoan, luôn yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với bố mẹ. Những khi ở nhà, ngoài công việc học hành, H còn thường xuyên giúp bố mẹ trong một số công việc gia đình. Ai cũng khen H là người chăm chỉ và ngoan ngoãn. Khi nói về H, các bạn trong lớp có các ý kiến khác nhau: - Một số bạn nói việc H yêu quý bố mẹ, kính trọng và giúp đỡ bố mẹ là thực hiện nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ theo quy định của pháp luật. - Một số bạn khác lại cho rằng đấy chẳng phải là nghĩa vụ theo pháp luật mà là xuất phát từ tình cảm của H, là hành vi xử sự theo chuẩn mực đạo đức. 1. Quan điểm của em về các ý kiến trên. 2. Trình bày mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật.” 18 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Với tình huống trên giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết theo các bước: Bước 1: Phát hiện vấn đề và giải thích và chính xáchóa tình huống để hiểu đúng vấn đề được đặt ra. Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện vấn đề: Tình huống trên thuộc nội dung bài học nào? Liên quan đến đơn vị kiến thức nào? Việc con cái làm những công việc nhà để giúp đỡ bố mẹ có phù hợp với chuẩn mực đạo đức không? Em biết được quy định nào của pháp luật về nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ không? Những câu hỏi gợi mở vấn đề giúp học sinh nhận diện và phát hiện ra vấn đề để đi đến câu trả lời chính xác. Bước 2: Hướng dẫn HS tìm hướng giải quyết vấn đề. Cần thu thập, tổ chức dữ liệu, huy động tri thức; sử dụng những phương pháp, kĩ thuật nhận thức, tìm đoán suy luận liên quan những vấn đề đã học; phương hướng đề xuất có thể được điều chỉnh khi cần thiết. Kết quả của việc đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề là hình thành được một giải pháp.Nếu đưa ra lựa chọn và giải thích đúng thì đi đến học sinh có thể tiếp tục trình bày. Nếu đưa ra lựa chọn sai thì quay lại phân tích vấn đề để tìm ra đáp án phù hợp nhất. Với những câu hỏi giáo viên gợi mở, học sinh chọn câu trả lời. Trong tình huống trên, học sinh đưa ra quan điểm mỗi ý kiến có ý đúng nhưng chưa đủ. Bước 3: Giải thích, trình bày phương án đã chọn. Trên cơ sở phương án đã chọn, học sinh giải thích vì sao mỗi ý kiến có ý đúng nhưng chưa đủ, từ đó đưa ra quan điểm của mình. Bước 4: Tìm hiểu khả năng ứng dụng của kết quả, liên hệ. Sau bài viết, học sinh có sự đánh giá, nhận xét và liên hệ đến bản thân học sinh. Trong chuyên đề 2: Công dân với kinh tế với chủ đề Thực hiện nền kinh tế nhiều thànhvà tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước giáo viên nêu tình huống có vấn đề: “Thông tin: “Đầu tư nước ngoài đang ngày càng trở thành kênh cấp vốn quan trọng, trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có mặt ở hầu hết các địa phương, tham gia vào nhiều lĩnh vực trên phạm vi cả nước...” (Nguồn: báo hanoimoi.com.vn ngày 13/12/2019) 1. Thông tin trên nói đến thành phần kinh tế nào? Trình bày hiểu biết của em về thành phần kinh tế đó. 2. Trong tương lai em có dự định làm việc trong thành phần kinh tế nào? Giải thích sự lựa chọn của em?” 19 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Để giải quyết vấn đề trên, trong quá trình bồi dưỡng giáo viên hướng dẫn cho sinh những vấn đề cơ bản nhất trong thành phần kinh tế ở nước ta. Giáo viên đặt câu hỏi cho các thành phần kinh tế khác để học sinh có thể nắm vững kiến thức đồng thời qua đó phân biệt được các thành phần kinh tế khác nhau.Thành phần kinh tế nàogiữ vai trò chủ đạo, nắm giữ các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế?Thành phần kinh tế nào giữ vai trò là một động lực của nền kinh tế? Thành phần kinh tế nào dựa trên hình thức sở hữu vốn của nước ngoài?... Trên cơ sở các câu hỏi gợi mở, học sinh nắm được đặc trưng cơ bản nhất của các thành phần kinh tế từ đó nhận diện vấn đề chính xác và giải quyết vấn đề phù hợp nhất. Trong chuyên đề: Công dân với các vấn đề về chính trị - xã hội với chủ đề Chính sách tài nguyên và bảo về môi trường giáo viên nêu tình huống có vấn đề: “Có ý kiến cho rằng: Con người vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của tình trạng hủy hoại môi trường” 1.Em có đồng ý với ý kiến đó không? Hãy giải thích. 2. Nếu mục tiêu và phương hướng của chính sách tài nguyên và bỏa vệ môi trường. Tương tự như các vấn đề trên, giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề, học sinh nhận diện và giải quyết vấn đề. Thông qua phương pháp dạy học giải quyết vấn đề tôi nhận thấy: - Phương pháp này góp phần tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán, tưduy sáng tạo cho học sinh. Trên cơ sở sử dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có học sinhsẽ xem xét, đánh giá, thấy được vấn đề cần giải quyết. - Đây là phương pháp phát triển được khả năng tìm tòi, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong khi phát hiện và giải quyết vấn đề, họcsẽ huy động được tri thức và khả năng cá nhân, khả năng hợp tác, trao đổi, thảo luận với bạn bè để tìm ra cách giải quyết vấn đề tốt nhất. - Thông qua việc giải quyết vấn đề, học sinhđược lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức. "Giải quyết vấn đề" không còn chỉ thuộc phạm trù phương pháp mà đã trở thành một mục đích dạy học, được cụ thể hóa thành một mục tiêu là phát triển năng lực giải quyết vấn đề, một năng lực có vị trí hàng đầu để con người thích ứng được với sự phát triển của xã hội. - Thông qua phương pháp này cũngđòi hỏi GV phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, phải có năng lực sư phạm tốt mới suy nghĩ để tạo ra được nhiều tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề.Việc tổ chức dạy học theo phương pháp giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn so với các phương pháp thông thường, vì vậy giáo viên phải đầu tư nhiều mới tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh giải quyết. 20 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
3.3.2. Phương pháp động não (công não) Đây là một phương pháp đặc sắc dùng để phát triển nhiều giải đáp sáng tạocho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách nêu cácý tưởngtập trung trên vấn đề, từ đó, rút ra rất nhiều đáp án căn bản cho nó. Phương pháp này có thể tiến hành bởi một hay nhiều người. Số lượng người tham gia nhiều sẽ giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn hay toàn diện hơn nhờ vào nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình độ, trình tự khác nhau của mỗi người. Tuy nhiên, trong bồi dưỡng học sinh giỏi, chỉ có 3 học sinh nên phương pháp công não chủ yếu áp dụng cho các cá nhân. Tùy một số nội dung mà giáo viên có thể áp dụng cho cả 3 học để tìm ra các ý tưởng nhanh nhất. Trong phương pháp động não có nhiều loại như động não công khai, động não không công khai, động não viết.Động não viết là một hình thức biến đổi của động não. Trong động não viết thì những ý tưởng không được trình bày miệng mà được từng thành viên tham gia trình bày ý kiến bằng cách viết chung vào giấy, bảng,..., bằng các từ khóa thành mộtbản đồ tư duy, hay một bài viết hoàn chỉnh về một chủ đề.Động não không công khai là một hình thức của động não viết. Mỗi một thành viên viết riêng ra giấy, nhưng chưa công khai, những ý đồ giải quyết vấn đề theo cách riêng của mình, mà không cósự tham khảo ý kiến hay bị tác động của người khác. Sau đó nhóm mới tập hợp các ý tưởng riêng đó và thảo luận chung về các ý kiến hoặc tiếp tục phát triển các ý tưởng tốt.Việc bồi dưỡng học sinh giỏi tôi nhận thấy sử dụng động não viết và không công khai là hiệu quả nhất. Bởi qua đó giáo viên có thể nắm bắt được khả năng tư duy và tập hợp ý tưởng của học sinh đầy đủ nhất đồng thời qua đó giáo viên có thể khái quát và định hướng cho các em học sinh dễ dàng hơn. Ví dụ trong chuyên đề Công dân với kinh tế các đề thi học sinh giỏi hàng năm đều có những câu hỏi đòi hỏi học sinh phải có những đánh giá, nhận xét về sự phát triển kinh tế ở địa phương như: Em có nhận xét gì về sản xuất hàng hóa tại địa phương em? Em có nhận xét gì về tình hình cung-cầu hàng hóa trên đại bàn tỉnh Nghệ An hiện nay? Em có nhận xét gì về cạnh tranh trong sản xuất hàng hóa ở địa phương em?..Dựa vào kỹ thuật công não, giáo viên cho học sinh viết nhận xét bằng cách dàn ý, viết càng nhiều ý càng tốtsau đó giáo viên tổng hợp lại các ý kiến của học sinh để rút ra những nội dung cơ bản nhất.Trong chuyên đề Công dân với đạo đứcđây là phần vận dụng nên việc giáo viên bồi dưỡng đưa ra một số vấn đề để học sinh tìm ra những ý tưởng, giải pháp là điều quan trọng. Khi học sinh biết các dạng vận dụng bởi tập hợp những ý tưởng thì học sinh có thể nắm bắt được toàn bộ nội dung phần này. 21 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
22 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Ví dụ với câu hỏi “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ giành phần ai? Dựa vào kiến thức đã học, em hãy làm rõ ý nghĩa của lời bài hát trên”. Với câu hỏi này, học sinh phải đưa ra nhiều đáp án, nhiều ý tưởng. Ba học sinh cùng học, các em sẽ viết ý tưởng của mình lên giấy sau đó giáo viên khái quát lại vấn đề đưa ra phương án đúng nhất để từ đó học sinh nắm vững một dạng đề. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi với việc sử dụng phương pháp động não tôi nhận thấy đây là phương pháp dễ thực hiện;Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ củahọc sinh; Huy động được nhiều ý kiến;Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham giaý kiến của mình không hạn chế; Học sinh biết cách tư duy độc lập, sáng tạo, không máy móc. Vì là kiến thức vận dụng hoặc những câu hỏi đòi hỏi tư duy cao không phải đọc thuộc nên học sinh hoàn toàn có thể chủ động đưa ra câu trả lời phù họp. Tuy nhiên trong quá trình làm bài học sinh có thể đi lạc đề, tản mạn;Có thể mất thời gian nhiều trong việc chọn các ý kiến thích hợp;Có thể học sinh say sưa viết mà quên để ý thời gian dẫn đến ý kiến không tập trung, lan man. Có một số học sinh khả năng tập hợp ý kiến hạn chế nên dễ đi xa vấn đề mà câu hỏi yêu cầu. 3.3.3. Sử dụng một số kĩthuật dạy học tích cực Kĩ thuật dạy học tích cực là những kĩ thuật có ý nghĩa đặc biệt trong việc tham gia sự phát huy tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học sinh.Học sinh là chủ thể của mọi hoạt động, giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tham gia tích cực vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạovà sự cộng tác làm việc của học sinh. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi nhận thấy cấu trúc đề thi học sinh giỏi có từ 20 –40% là kiến thức nhận biết và thông hiểu. Vì vậy, để học sinh ghi nhớ kiến thứcmột cách logic, dễ nhớ, dễ thuộc tôi đã vận dụng một số kỷ thuật dạy học tích cực như: Kỉ thuậtsơ đồ tư duy; kĩ thuật công não, kĩ thuật đặt câu hỏi...Trong đó sử dụng kỉ thuật sơ đồ tư duy khá hiệu quả. Sơ đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề.Sơ đồ tư duy –một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch lạc. Để học sinh ghi nhớ kiến thức, trước hết giáo viên cần nêu chủ đề và cho học sinh liệt kê những hiểu biết của mình về chủ đề đó ra giấy. Khi học sinh đã 23 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
liệt kê hết những kiến thức cơ bản bằng sơ đồ, giáo viên khái quát nội dung, học sinh đối chiếu kết quả. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức chuyên đề Công dân với kinh tế với chủ đề: Hàng hóa –tiền tệ - thị trường, học sinh cần nắm vững các đơn vị kiến thức cơ bảnđược khái quát bằng sơ đồ tư duy V ới việc hướng dẫn học sinh họcbài bằng sơ đồ tư duy, các emnhớ bài nhanh, không bỏ sót ý, nắm chắc những nội dung, kiến thức cơ bản. Qua đó, khi vào làm bài với những câu nhận biết, học sinh không bao giờ để mất điểm. Tương tự như chủ đề trên, các chủ đề khác trong các chuyên đề tôi đã vận dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy để học sinh nắm vững kiến thức. Chính vì điều đó nên hầu hết đội tuyển học sinh giỏi của trường tôi tham gia thi tôi đều rất yên tâm về những câu hỏi nhận biết và thông hiểu. 3.4. Rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh Kết quả của bài thi không chỉ phụ thuộc vào khối lượng kiến thức của học sinh mà còn dựa vào độ linh hoạt, khả năng ứng biến, tình trạng sức khỏe…và rất nhiều yếu tố khác. Trong đó kỹ năng làm bài là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quảcủa học sinh. 3.4.1. Kỹ năng đọc kỹ đề bài Đọc kĩ đề bài, chú ý tới các dữ kiện đề bài đưa ra và những yêu cầu mà đề bài đòi hỏi. Khi đề có lời dẫn, tình huốngthì hết sức thận trọng, tìm hiểu cẩn thậntừng dữ kiện, từng mốiquan hệđể có thể hiểu một cách chính xác nội dung mà đề được nêu. 24 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Ví dụ:trong tình huống Xưởng sản xuất đồ gỗ của ông H bán chiếc tủ với giá 20 triệu đồng nhưng khách hàng mới thanh toán 15 triệu đồng, còn nợ 5 triệu đồng. Ông H đã sử dụng số tiền đó mua nguyên vật liệu để đóng chiếc tủ mới. a. Trong trường hợp trên, tiền tệ thực hiện những chức năng nào? Hãy giải thích. b. Em đã vận dụng chức năng tiền tệ như thế nào trong đời sống hàng ngày? học sinh phải xác định những yêu cầu chính của đề: nội dung, dạng đề, mức độ cần giải quyết... Để có thể địnhđược phương hướng triển khai bài làm, học sinh cần trảlời được các câu hỏi: yêu cầu của đề là gì? dạng đề nhận biết hay vận dụng? Giải quyết tình huống theo cách nào?Việc trả lời các câu hỏi này càng rõ ràng, cụ thể, chính xác thì hiệu quả của bài làm càng cao. Đặc biệt câu hỏi “yêu cầu của đề là gì” nếu không xác định rõ sẽ dẫn tới chỗ lạc đề, loãng đề và việc trả lời không có trọng tâm, không đưa ra hết ý theo yêu cầu. 3.4.2. Kỹ năng nhận dạng đề thi Thực tế, khi đề thi được phát ra, các bạn học sinh sẽ có khoảng 5-10 phút để kiểm tra một lượt đề thi. Chính vì vậy, học sinh không nên vội vàng làm bài ngay mà hãy dùng khoảng thời gian này để nhận biết dạng đề, xem xét toàn diện cấu trúc đề thi và mức độ khó dễ của từng câu hỏi. Thường thì các câu hỏi trong đề thi học sinh giỏi chủ yếu là vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống hoặc lý giải một vấn đề, hoặc trình bày một quan điểm của mình về các vấn đề trong xã hội. - Dạng đề1: Có thể trích dẫn một câu tục ngữ, một câu ca dao, một đoạn thơ, một câu hát… từ đó đặt ra yêu cầu xác định câu tục ngữ, câu ca dao, đoạn thơ hay câu hát đó liên quan đến nội dung nào đã học trong chương trình. Sau đó trình bày hiểu biếtcủa mình về nội dung đó? Ví dụ “Có công mài sắtcó ngày nên kim” (Tục ngữ Việt Nam) a. Câu tục ngữ trên liên quan đến bài nào đã học trong chương trình môn Giáo dục công dân THPT? b.Trình bày hiểu biết của em về nội dung bài học đó? - Dạng đề 2: Có thể đưa ra một số thông tin, một hiện tượng nào đó và từ đó yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức đã họ để lý giải về hiện tượng trên. Ví dụ: Thông tin: “…Thành phố Hồ Chí Minh đã nhập khẩu 13.000 tấn thịt lợn, tăng hơn 100% so với năm 2018. Phía doanh nghiệp cũng cam kết nhập khẩu thêm mặt hàng này. Song nếu giữ nguyên giá nhập khẩu lợn thịt, cộng thuế và chi phí đưa ra thị trường khiến giá thịt nhập khẩu cao tương đương với thịt 25 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
nóng. Do đó Sở công thương thành phố Hồ Chí Minh đề xuất miễn hoặc giảm thuế nhập khẩu cho mặt hàng thịt lợn dịp cao điểm…” (Theo nguồn báo Công an nhân dân online ngày 30/12/2019) Hỏi: a. Vận dụng kiến thức đã học để lý giải hiện tượng trên. b. Trình bày tác động của quy luật giá trị. - Dạng đề 3: Có thể từ một câu hát, thông tin về một vấn đề nào đó sau đó sẽ yêu cầu vận dụng kiến thức đã học hãy làm rõ ý nghĩa hoặc suy nghĩ của lời bài hát hay vấn đề đó. Ví dụ 1: Trong bài hát “Một đời người một rừng cây” của nhạc sĩ Trần Long Ẩn có câu: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai”. Vận dụng kiến thức đã học em hãy làm rõ ý nghĩa của lời bài hát trên. - Dạng đề 4: Bài tập tình huống: Thường là các bài tập tình huống liên quan đến nội dung kiến thức đã học trong chương trình Giáo dục công dân 11. Trong tình huống đó thường có những câu hỏi xoay quanh tình huống đó về những vấn đề đã được học. Bao giờ câu hỏi cũng lồng vào phần lý thuyết đã học, hoặc có thể kèm theo câu "em có đồng ý với ý kiến đó không? Vì sao?" hoặc giải thích hiện tượng, nhận xét về vấn đề đó và cũng có thể là liên hệ bản thân em cần phải làm gì. Ví dụ 1: Sau khi học xong bài 2: “Hàng hóa - Tiền tệ - Thị trường” (Giáo dục công dân 11). - Nguyệt cho rằng: Mọi sản phẩm của lao động đều là hàng hóa. - Thảo cho rằng: Mọi hàng hóa đều là sản phẩm của lao động. - Thắng cho rằng: Không phải mọi hàng hóa đều là kết quả của quá trình lao động. a. Theo em, ai nói đúng? Vì sao? b. Em có nhận xét gì về tình hình sản xuất hàng hóa của đất nước ta trong những năm gần đây? Ví dụ 2: Mặc dù giá thu mua tôm sú trên thị trường đang đồng loạt giảm mạnh nhưng vì mới đầu tư hệ thống lọc nước đắt tiền nên chị A dự định vẫn tiếp tục mở rộng quy mô nuôi tôm. Chồng chị A lại muốn thu hẹp hoặc chuyển sang nuôi cá ba sa vì giá cả mặt hàng này trên thị trường đang cao. Còn con trai của vợ chồng chị A cho rằng nên nuôi tôm cầm chừng chờ khi nào giá lên thì mở rộng quy mô. 26 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
a. Trong tình huống trên các quy luật kinh tế nào chi phối hoạt động sản xuất của gia đình chị A? Hãy giải thích. b. Em đồng ý với ý kiến của ai? Vì sao? + Dạng đề 5: Có thể ra theo kiểu viết một bức thư, một tham luận, 1 suy nghĩ của bản thân về một vấn đề nào đó, 1 chủ đề nào đó.. Ví dụ: Hưởng ứng Ngàythế giớitưởngniệmcác nạnnhân tử vong dotai nạngiaothôngnăm2016.Đoàn trường tổ chức cuộc thi viết bản tin phát thanh với chủ đề: “Tai nạn giao thông - nỗi lo của toàn xã hội”. Em hãy viết bài tham gia cuộc thi trên. + Dạng đề 6: Trình bày hiểu biết, suy nghĩ của mình về một vấn đề nào đó trong xã hội. Tức là từ một sự kiện, một vấn đề nào đó nổi bật trong năm để viết lên suy nghĩ của mình hoặc bản thân có sự nhìn nhận, đánh giá như thế nào về một vấn đề nóng nào đó trong xã hội. Ví dụ: Tối ngày 15 tháng 12 năm 2018, sau khi Việt Nam chiến thắng trong trận đá chung kết giải AFF Cúp 2018, hàng triệu con người Việt Nam đã đổ ra đường mang theo cờ đỏ sao vàng, băng rôn, khẩu hiệu, kèn trống,... và cất vang bài hát “Tự hào hát mãi lên Việt Nam ơi”. Là một công dân của nước Việt Nam em có suy nghĩ gì về vấn đề này? + Dạng đề 7: Nêu hiểu biết về một sự kiện nổi bật nào đó trong năm và nêu ý nghĩ của sự kiện đó. Ví dụ: “Cùng với sự thành công rực rỡ của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Ngày 22/5/2016 sắp tới sẽ diễn ra một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng mang tầm bậc nhất của đất nước, đó là đợt sinh hoạt chính trị pháp lý - dân chủ sâu rộng trong các tầng lớp của nhân dân”. (Trích Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 04/3/2016). a. Em hãy cho biết đó là sự kiện nào của đất nước ta? Ý nghĩa của sự kiện đó? b. Sự kiện trên thể hiện nội dung dân chủ trong lĩnh vực nào? Trình bày hiểu biết của em về nội dung dân chủ trong lĩnh vực đó? + Dạng đề 8: Học sinh viết lên cảm xúc suy nghĩ của mình về một chủ đề nào đó mà đề yêu cầu. Ví dụ 1: Mái trường - Thiên đường tuổi học trò? Ví dụ 2: Có ý kiến cho rằng: “Hãy sống thật với bản thân, gia đình và xã hội” Ý kiến của em,… Ví dụ 3: ...Cảm ơn là một trong các biểu hiện của ứng xử có văn hoá, là hành vi văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội. Trong ứng xử giữa cộng đồng, khi cảm ơn được trình bày một cách chân thành, một mặt phản ánh bản chất văn 27 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
hoá của cá nhân, một mặt giúp mọi người dễ cư xử với nhau hơn... (Báo Điện tử Nhân dân, Thứ ba ngày 05/01/2016 Trang "Diễn đàn Văn hoá"). Suy nghĩ của em về văn hoá cảm ơn? Sau khi nhận biết dạng đề, học sinh cần phải định hướng nội dung triển khai, câu hỏi muốn nói đến vấn đề gì và gạch ra giấy nháp những nội dung, kiến thức cần nhớ đến để triển khai. Bên cạnh đó, việc nhận biết đề thi còn giúp cho các bạn học sinh tránh rơi vào tình trạng “lạc đề”. 3.4.3. Kỹ năng làm bài thi Sau khi học sinh có kỹ năng nhận dạng đề thi, việc làm bài thi theo các dạng đề thi đã nhận dạng được là một kỹ năng rất quan trọng để có thể lấy được điểm cao nhất. Ở dạng đề 1: Có thể trích dẫn một câu tục ngữ, một câu ca dao, một đoạn thơ, một câu hát… từ đó đặt ra yêu cầu xác định câu tục ngữ, câu ca dao, đoạn thơ hay câu hát đó liên quan đến nội dung nào đã học trong chương trình. Sau đó trình bày hiểu hiết của mình về nội dung đó? Với dạng này học sinh cần lưu ý: + Xác định đúng phạm vi kiến thức liên quan + Trình bày được hiểu biết của mình về kiến thức đó: từ khái niệm, nội dung, ví dụ, biểu hiện, ý nghĩa, bài học, liên hệbản thân… - Dạng đề 2: Có thể đưa ra một số thông tin, một hiện tượng nào đó và từ đó yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức đã họ để lý giải về hiện tượng trên. Với dạng này yêu cầu học sinh: + Đọc kỹ vấn đề đó, hiện tượng đó + Xác định xem hiện tượng đó, vấn đề đó thuộc phạm vi kiến thức bài nào trong chương trình đã học. + Trình bày nội dung kiến thức có liên quan đến hiện tượng đó, sự kiện đó. + Nếu câuhỏi vận dụng kiến thức đã học để giải thích vấn đề thì phải nêu được kiến thức đã học có liên quan đến bài đó từ khái niệm, thực trạng, hậu quả, giải pháp nhất là liên hệ bản thân. + Nếu hỏi vấn đề đó phản ánh điều gì thì trả lời thẳng vào vấn đề đó đồng thời lồng vào liên hệ bản thân về vấn đề đó. + Đề có thể họ sẽ nêu một số vấn đề đang được dư luận quan tâm, báo chí nhắc nhiều và từ những vấn đề nêu ra, học sinh sẽ vận dụng kiến thức đã học để lý giải hoặc trình bày quan điểm của mình về vấn đề đó + Thái độ của bản thân trước thông tin đó, hiện tượng đó. 28 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
+ Liên hệ bản thân - Dạng đề 3 Có thể từ một câu hát, một câu chuyên, thông tin về một vấn đề nào đó sau đó sẽ yêu cầu vận dụng kiến thức đã học hãy làm rõ ý nghĩa hoặc suy nghĩ của lời bài hát hay câu chuyện đó, vấn đề đó. Với dạng này học sinh cũng cần lưu ý: + Xác định xem câu hát, câu chuyện đó, thông tin đó có ý nghĩa gì? ý nghĩ đó có liên quan đến bài học nào? + Thái độ nhận thức, đánh giá, cảm nhận và hành động của bản thân + Ví dụ, dẫn chứng + Liện hệ bản thân - Dạng đề 4: Bài tập tình huống Với dạng này học sinh cần chú ý: + Đọc kỹ tình huống, trả lời ngắn gọn, hỏi gìtrả lời nấy, diễn đạt rõ ràng trả lời đúng theo yêu cầu của từng câu hỏi nhỏ trong tình huống. Thông thường bài tập tình huống thường có khoảng một đến ba câu hỏi nhỏ. + Đối với câu hỏi “em đồng ý với ý kiến của ai? Vì sao” thì trả lời “đồng ý với ai…” chú ý thường có thể sẽ có hai ý kiến đúng nên lúc làm bài phải đọc kĩ. Sau đó vận dụng kiến thức có liên quan để giải thích. + Sau câu hỏi đối với tình huống thì sẽ là một câu hỏi về kiến thức cụ thể. Đối với câu này học sinh sẽ trình bày đầy đủ những kiến thức đã được học theo phạm vi yêu cầu của đề. + Chú ý trong quá trình trả lời cần vận dụng kiến thức để phân tích, lý giải cho vấn đề đưa ra. Sau đó mới chốt lại vấn đề cho chặt chẽ - Dạng đề nghị luận xã hội về vấn đề đạo lí đạo đức hoặc là vấn đề hiện tượng trong đời sống xã hội. Dạng này cần lưu ý các vấn đề sau: + Lưu ý cách dạng đề nêucảm xúc, suy nghĩ của em về các vấn đề xã hội, đạo đức. Có 2 kiểu đề: Một là: Kiểu đềđưa ra 1 nhận định, 1 câu nói, 1 câu danh ngôn, tục ngữ… Hai là: Yêu cầu bàn luận về 1 phẩm chất tính cách, trạng thái, tâm lí… Yêu cầu: Giải thích khái niệm (nếu có) là gì? Lí giải vấn đề: Tại sao? Biểu hiện: Vấn đề đó được thể hiện như thế nào trong cuộc sống hằng ngày (đưa dẫn chứng để chứng minh) 29 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Đánh giá: Luận bàn vấn đề (đề mở, thể hiện bản lĩnh của người viết, quan niệm của người viết đối với vấn đề đó đúng hay sai, có thể lật ngược vấn đề hay không? Kết bài: Rút ra bài học về nhận thức và hành động - Dạng đề về tư tưởng, đạo lý: Vấn đề bàn luận thường là những khía cạnh đạo đức, tư tưởng, tình cảm trong cuộc sống như tình yêu thương gia đình, bạn bè, ý thức trách nhiệm, hình thành nhân cách, tính cách trung thực, ích kỉ, vị tha, dũng cảm, hèn hạ, trạng thái bình yên, khoảng lặngtrong tâm hồn. Đối với dạng đềvề nghị luận 1 tư tưởng đạo lí, đề giải quyết vấn đề cần phải xem xét nó dưới nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là nên đặt câu hỏi: nó là gì? Nó như thế nào? Vì sao nó lại thế? Được thể hiện trong cuộc sống ra sao? Như thế có ý nghĩa gì đối với cuộc sống, con ngườivà với bản thân. - Dạng đề đề nghị luận xã hội về một vấn đề, một hiện tượng trong xã hội: Yêu cầu của kiểu bàinày là học sinh cần làm rõ hiện tượng đời sống (qua việc miêu tả, phân tích nguyên nhân, các khía cạnh của hiện tượng…) từ đó thể hiện thái độ đánh giá của bản thân cũng như đề xuất ý kiến, giải pháp trước hiện tượng đời sống. Cần có cách viết linh hoạt theo yêu cầu của đề bài, tránh làm bài máy móc hoặc chung chung. Học sinh tham gia thi chọn đội tuyển HSG cấp tỉnh 3.4.4. Kỹ năng phân bổ thời gian Chúng ta chỉ có một khoảng thời gian nhất định để làm bài thi, vậy nên các bạn hãy chia đều thời gian cho từng câu dựa trên số điểm của câu hỏi đó. Đặc biệt, các bạn không nên để phí thời gian vào những câu hỏi khó mà hãy tập trung giải quyết các câu dễ trước rồi làm câu khó sau. 30 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Để phân bổ thời gian hợp lý, có một cách hiệu quả được nhiều người sử dụng khi đi thi là lấy tổng thời gian làm bài chia cho số điểm tối đa của bài thi. Sau đó, lấy kết quả nhân với số điểm của từng câu để có thời gian phù hợp cho mỗi câu hỏi. Tuy nhiên, đối với những câu hỏi dễ mà có thể làm nhanh và đúng được thì hãy cố gắng tiết kiệm thời gian để làm các câu khó phía sau. Nhưng các bạn học sinh cũng cần lưu ý rằng, khi làm bất kỳ câu hỏi nào cũng cần phải cẩn thận để làm, tránh mất điểm đáng tiếc ở những câu dễ hay không kịp thời gian làm câu hỏi khó. Tóm lại các kĩ năng đã nêu trên, giáo viên phải hình thành thuần thục cho học sinh trong quá trình ôn luyện. Không phải lúc nào giáo viên cũng tiến hành đồng thời tất cả các kĩ năng này. Song giáo viên cần có kế hoạch cụ thể để rèn toàn bộ các kĩ năng. Cái đích cuối cùng cần đạt đến là trước khi thi, học sinh phải thuần thục vận dụng các kĩ năng, trở thành kĩ xảo - mức độ cao của kĩ năng. 4. Kết quả đạt được Với những việc đã làm như trên đối chứng với cách làm trước đây, tôi đã thu đựơc những kết quảrất khích lệ, lãnh đạo nhà trường, đồng nghiệp và các trường bạn ghi nhận. Góp một phần vào thành tích chung của nhà trường trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm nay. Có thể nói, sự kiên trì tận tâm và lòng nhiệt tình trong chuyên môn của bản thân cùng với sự miệt mài chăm chỉ, nỗ lực của các em học sinh đã được đền đáp. Với những kinh nghiệm của bản thân trong suốt quá trình tham gia bồi dưỡng học sinh giỏitại trường trung học phổ thông Lê Viết Thuật,liên tục trong những năm gần đây đội tuyển môn GDCD đã đạt chỉ tiêu nhà trường đề ra. Năm học 2015 –2016: 3/3 em tham gia thi học sinh giỏi tỉnh đạt giải nhất - Nguyễn Thị Cẩm Trang - Nguyễn Thị Thơ - Nguyễn Thị Thùy Linh Năm học 2018–2019: 3/3 em đạt giải trong đó 1 giải nhất, 2 giải nhì - Lê Thị Phương Linh: Giải nhất (thủ khoa môn GDCD tỉnh) - Bùi Thị Phương Linh: Giải nhì - Lê Phan Hà Thanh: Giải nhỉ Trong các năm 2016 – 2017; 2017 –2018 các đồng nghiệp của tôi trực tiếp bồi dưỡng. Từ kinh nghiệm của bản thân tôi trong nhiều năm, tôi đã chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ đồng nghiệp. Kết quả năm học 2016-2017 3/3 học sinh đạt giải trong đó có 1 giải nhất, 2 giải nhì; Năm học 2017-2018 3/3 em đạt giải nhất. Bên cạnh đánh giá học sinh tại trường THPT Lê Viết Thuật, để đánh giá được kết quả của đề tài, trong ba năm học qua, chúng tôi đã tham gia sinh hoạt 31 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
chuyên môn theo nghiên cứu bài học theo cụm bao gồm các trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh và một số trường ở Hưng Nguyên, Cửa Lò. Qua trao đổi góp ý chuyên môn, các đồng nghiệp của tôi đã vận dụng tốt những biện pháp mà tôi đề xuất vào quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Kết quả tham gia thi học sinh giỏi tỉnh của các trường càng ngày càng được nâng cao. Đó là minh chứng cho thấy bên cạnhsự tâm huyết của người giáo viên còn đòi hỏi người giáo viên có sự chắc chắn về kiến thức vàkĩ năng bồi dưỡng học sinh giỏi. Như vậy chothấy, việc sử dụng các biện pháp nêu trên để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏisẽ giúp ích rất nhiều cho cả thầy và trò trong quá trình ôn luyện, góp phần nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD nói riêng và nhiều môn học khác trong chương trình cấp THPT nói chung. Vì vậy nên, có thể khẳng định tính đúng đắn, thực tế trong sáng kiến kinh nghiệm của tôi. 32 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
Phần III. KẾT LUẬN “Dạy học là một nghệ thuật”! Điều này càng đúng hơn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bởi vì bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá trình công phu, nhiều thử thách đối với cả thầy và trò. Cho nên, ngoài trình độ chuyên môn, kinh nghiệm uy tín thì giáo viên dạy GDCD phải thực sự nhiệt tình, tâm huyết trong giảng dạy để khơi dậy được ở học sinh sự yêu thích môn học và thắp lên niềm tin vững chắc cho các em đi đến thành công. Qua quá trình nghiên cứu lí luận, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD tại trường THPT Lê Viết Thuật tôi nhận thấy: Thứ nhất, sáng kiến kinh nghiệm đã tìm hiểu được một số vần đề lí luận liên quan đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏimôn GDCD ở cấp THPT. Qua việc nghiên cứu lí luận, giáo viên có thể thấy rõ vai trò và những nguyên tắc cơ bản trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Từ đó giáo viên có thể tổ chức các hoạt động ôn luyệnđược tốt hơn và vận dụng tốt các giải pháp để có kết quả cao hơn trong bồi dưỡng học sinh giỏi. Thứ hai, qua quá trình tìm hiểu được thực trạngvà những thuận lợi, khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân tôi nhận thấy đối với trường THPT Lê Viết Thuật và các giáo viên trong nhóm đã luôn tích cực ủng hộ, tạo mọi điều kiện để giáo viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi phát huy hết khả năng của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó cònsố ít giáo viên ngại tham gia vào công tác bồi dưỡng học sinh giỏi vì áp lực, vì mất nhiều thời gian. Trong khi đó công việc này đòi hỏi người giáo viên phải có đầy đủ tâm thế để gánh trọng trách, chia sẻ trách nhiệm, cố gắng hết mình để đạt kết quả cao nhất. Thứ ba, trong SKKN đã đưa ra đượcmột số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD. Việc đó sẽgiúp giáo viên có thêm một số cách thức để ôn luyện phù hợp. Qua đó cũng đòi hỏi người giáo viên luôn có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn và linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Thứ tư, qua sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã vận dụng giảng dạy trong những năm qua và đạt kết quả tích cực. Qua đây có thể rút ra một số lưu ý sau: Nắm chắcbản chất và nguyên tắc trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD để vận dụng cho phù hợp.Cần xây dựng các chuyên đề dạy học phù hợp với cấu trúc và khung chương trình.Cần chuẩn bị một cách nghiêm túc, đầy đủ những nội dungdạy học để tránh tình trạng bồi dưỡng không có hệ thống, nhàm chán. Việc tạo hứng thú và tăng hiệu quả, chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD là vô cùng cần thiết. Vì vậy mỗi người giáo viên cần tíchlũy cho 33 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
mình lượng kiến thức, kĩ năng và phương pháp giảng dạy phù hợp để tạo sựu hứng thu học tập cho học sinh. Để đảm bảo cho việc bồi dưỡng học sinh giỏimôn GDCD đạt hiệu quả cao, tôi xin có một số kiến như sau: 1. Trong những năm gần đây công tác ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi đã nhận được sự quan tâm, động viên rất lớn từ các cấp lãnh đạo Ngành. Tuy nhiên, như đã nói, đây là công việc hết sức khó khăn đòi hỏi nhiều công sức, tâm huyết và thời gian của cả thầy và trò khi tham gia đội tuyển. Chính vì vậy kính mong các cấp lãnh đạo Ngành tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi hiệu quả hơn, thực chất hơn. 2. Đối với các trường THPT: Không ngừng yêu cầu giáo viêntự học, tự bồi dưỡng để năng cao năng lực chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh. Tạo điều kiện cho giáo viêntham gia vào công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. 3. Đối với giáo viên: Không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, tích cực học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Cập nhật kiến thức, rèn luyện kĩ năng giảng dạy để đạt hiệu quả cao trong nghề nghiệp của mình. Mặc dù trong quá trình thực hiện tôi đã áp dụng các giải pháp trên nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh khác chưa nghiên cứu. Đề tài chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. 34 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Mai Văn Bính (tổng chủ biên), Sách Giáo dục công dân 10, Nhà xuất bản Giáo dục. 2.Mai Văn Bính (tổng chủ biên), Sách giáo dục công dân 11, Nhà xuất bản Giáo dục. 3.Mai Văn Bính (tổng chủ biên), Sách giáo viên giáo dục công dân 11, Nhà xuất bản Giáo dục. 4.Đinh Văn Đức (tổng chủ biên), Dạyhọc theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Giáo dục công dân 10 và giáo dục công dân 11, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội. 5.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên GDCD trường THPT, NXB Giáo dục. 6.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng GDCD 10, 11, 12, NXB Đại học sư phạm. 7.Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn Dạy học theo định hướng phát triển năng lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8.Nguyễn Hữu Châu (2005), Những vấn đềcơ bản vềchương trình và quá trình dạy học, Nxb Giáo dục. 35 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH Lễ hoan tiễn đội tuyển học sinh giỏi tham gia thi học sinh giỏi tỉnh Giáo viên bồi dưỡng với đội tuyển đạt thành tích cao 36 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
37 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/
38 https://sangkienkinhnghiemlop5.com/