1 / 22

KKN Giúp học sinh lớp 3 giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị dạng a:bxc

Mu1ed7i mu00f4n hu1ecdc u1edf tiu1ec3u hu1ecdc u0111u1ec1u gu00f3p phu1ea7n vu00e0o viu1ec7c hu00ecnh thu00e0nh vu00e0 phu00e1t triu1ec3n nhu1eefng <br>cu01a1 su1edf ban u0111u1ea7u ru1ea5t quan tru1ecdng u1edf nhu00e2n cu00e1ch con ngu01b0u1eddi. Trong cu00e1c mu00f4n hu1ecdc u1edf tiu1ec3u hu1ecdc <br>cu00f9ng vu1edbi mu00f4n Tiu1ebfng Viu1ec7t, mu00f4n Tou00e1n cu00f3 vu1ecb tru00ed ru1ea5t quan tru1ecdng vu00ec: Cu00e1c kiu1ebfn thu1ee9c, ku0129 nu0103ng <br>cu1ee7a mu00f4n Tou00e1n cu00f3 ru1ea5t nhiu1ec1u u1ee9ng du1ee5ng trong cuu1ed9c su1ed1ng, chu00fang ru1ea5t cu1ea7n thiu1ebft cho ngu01b0u1eddi <br>lao u0111u1ed9ng, ru1ea5t cu1ea7n thiu1ebft u0111u1ec3 hu1ecdc cu00e1c mu00f4n hu1ecdc khu00e1c vu00e0 hu1ecdc tiu1ebfp Tou00e1n u1edf Trung hu1ecdc. Cu00e1c <br>kiu1ebfn thu1ee9c, ku0129 nu0103ng cu1ee7a mu00f4n Tou00e1n u1edf tiu1ec3u hu1ecdc u0111u01b0u1ee3c hu00ecnh thu00e0nh chu1ee7 yu1ebfu bu1eb1ng thu1ef1c hu00e0nh, <br>luyu1ec7n tu1eadp vu00e0 thu01b0u1eddng xuyu00ean u0111u01b0u1ee3c u00f4n tu1eadp, cu1ee7ng cu1ed1, phu00e1t triu1ec3n, vu1eadn du1ee5ng trong hu1ecdc tu1eadp vu00e0 <br>trong u0111u1eddi su1ed1ng.

Download Presentation

KKN Giúp học sinh lớp 3 giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị dạng a:bxc

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. A.ĐẶT VÊN ĐỀ Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân cách con người. Trong các môn học ở tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng vì: Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác và học tiếp Toán ở Trung học. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống. Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giaiđoạn phát triển của học sinh. Ởlớp 3, các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm được chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đây là giai đoạn quan trọng giúp các em hình thành các kĩ năng giải toán có lời văn. Lớp 3 các em được làm quen với các dạng toán có lời văn như tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần,…và đặc biệt là học sinh biết giải toán có lời văn bằng hai phép tính như dạng bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị.Dạng toán này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế trong hàng ngày. Vì vậy, việc biết giải toán có lời văn đối với các em là rất quan trọng. Nhờ giải toán các em có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Qua việc dạy học giải toán có lời văn sẽ giúp các em tự phát hiện vấn đề, giái quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra qui tắc ở dạng khái quát nhất định hay nói một cách khác dạy học giải toán sẽ phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả theo một trình tự hợp lý làm cơ sở vững chắc để các em giải tốt các dạng toán có lời văn ở giai đoạn II bậc tiểu học và là tiền đềcho quá trình dạy học toán ở các lớp cao hơn sau này. Năm học 2015- 2016, tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy lớp 3B. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy khả năng giải toán có lời văn của học sinh còn nhiều hạn chế nhất là những bài toán hợp giải bằng hai phép tính. Nguyên nhân chính là do các em còn nhầm lẫn giữa các dạng bài toán giống nhau, rập khuôn theo mẫu hoặc công thức mà không hiểu được bản chất của dạng toán nên không giải thích được cách làm. Xác định được vị trí, tầm quan trọng trong việc dạy học giải toáncó lời văn ở lớp 3. Trăn trở với việc làm thế nào để nâng cao chất lượng của lớp mình phụ trách. Tôi xét thấy mình cần tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp về“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 trường Tiểu học Đông Xu©n - Đông Sơn nắm vững cáchgiải bài toán liên quan đến rút về đơn vị dạng a:bxc ”. B.GIẢI QUYẾT VÊN ĐỀ 1 Lop4.edu.vn

  2. I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Trong học toán, HS không phải chỉ cần nắm chắc kiến thức là có thể làm toán tốt, nhanh, chính xác. Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn và phức tạp. Việc hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ xảo tính vì các bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không phải chỉ nhớ mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi HS phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả năng bộc lộ suy nghĩ của HS, đòi hỏi HS phải biết làm tính thông thạo. 1. Yêu cầu của dạy học giải toán có lời văn ở Tiểu học - Giúp HS luyện tập, cũng cố, vận dụng các kiến thức toán học, các kĩ năng tính toán, kĩ năng thực hành vào thực tiễn. - Phát triển năng lực tư duy, rèn phương pháp và thao tác phân tích - tổng hợp, so sánh, suy luận , qua đó nâng cao năng lực hoạt động trí tuệ cho HS. - Rèn cho HS kĩ năng đặt tính, đặt lời giải cho bài toán có lời văn và phong cách làm việc khoa học, học tập linh hoạt, sáng tạo. 2. Yêu cầu cơ bản về giải toán có lời văn ở lớp 3 : - Biết giải và trình bày bài giải có đến 2 phép tính. - Biết giải và trình bày bài giải một số dạng bài như: tìm một trong các phần bằng nhau của một số bài toán liên quan đến rút về đơn vị. - Mçi bµi to¸n c¸c em cã lµm tèt ®-îc hay kh«ng ®Òu phô thuéc vµo c¸c ph-¬ng ph¸p gi¶i to¸n ®-îc vËn dông ë mçi b-íc gi¶i bµi to¸n ®ã. - Một số bước chung để giải một bài toán có lời văn như sau: *Bước 1:Đọc kĩ đầu bài, xác định cái đã cho, cái phải tìm. Sau đó thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho và tóm tắt bài toán bằng lời, bằng kí hiệu ngắn gọn hoặc minh họa bằng sơ đồ đoạn thẳng. * Bước 2:Lập kế hoạch giải: Suy nghĩ hướng trả lời của bài toán và xác định cách giải, các phép tính. (Cần thực hiện phép tính gì? Mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán có thể cho biết được gì? Phép tính đó có giúp trả lời câu hỏi của bài toán không?) * Bước 3:Thực hiện kế hoạch giải (Giải bài toán theo trình tự đã thiết lập). * Bước 4:Kiểm tra lời giải, đánh giá cách giải. Đây là bước bắt buộc trong quá trình giải toán. Thực hiện bước này nhằm mục đích: - Kiểm tra, rà soát lại công việc giải toán. - Kiểm tra kết quả vừa tìm được và đối chiếu với các dữ kiện của bài toán xem có chính xác không. - Tìm kiếm cách giải khác. Các bước này nó có ý nghĩa rất quan trọng và là 4 bước không thể thiếu trong khi giải bất kì một bài toán nào. II. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU: 1.Đối với giáo viên: Qua thực tế giảng dạy, dự giờ thăm lớp của các đồng nghiệp tôi thấy giáo viên thường tiến hành như sau: 2 Lop4.edu.vn

  3. * Đối với bài hình thành kiến thức mới: Ví dụ: Tiết 122 trang 128 SGK Toán 3 - Bài toán 1: Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? (Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu đề, phân tích bài toán, lựa chọn phép tính thích hợp và ghi bài giải như sách giáo khoa) - Bài toán 2: Giáo viên tiến hành tương tự như bài toán 1 và rút ra các bước giải của dạng toán. - Phần bài tập giáo viên tổ chức cho học sinh làm lần lượt các bài tập trong sách giáo khoa sau đó chữa bài và nêu cách làm đúng. Qua dự giờ tiết này tôi thấy: Khi hướng dẫn học sinh hình thành kiến thức mới qua hai bài toán mẫu giáo viêncòn mắc một số thiếu sót sau: + Chưa giải thích cho học sinh rõ các thuật ngữ, các khái niệm toán học có trong bài toán. + Chưa khắc sâu được đặc điểm dạng toán thông qua các thuật ngữ toán học có trong bài . + Hình thức tổ chức dạy học còn chưa linh hoạt, gây nhàm chán trong tiết học, học sinh chưa hứng thú học tập. * Đối với bài ôn luyện kiến thức: Ví dụ: Dự giờ tiết luyện tập ( tiết 123 trang129 SGK Toán 3) Giáo viên đã tổ chức cho HS làm các bài tập theo các hình thức phong phú hơn nhưng học sinh còn làm sai nhiều do chưa hiểu được bản chất của dạng toán và sau mỗi bài tập giáo viên chưa củng cố và khắc sâu đặc điểm của từng bài cụ thể. 2. Đối vớihọc sinh: Qua thực tế giảng dạy và qua dự giờ thăm lớp tôi thấyhọc sinh còn những hạn chế sau: - Học sinh còn thụ động trong suy nghĩ, thường nôn nóng, đọc qua loa đề bài, chưa chú ý đến các dữ kiện, dữ liệu của bài toán. Khi tìm hiểu đề toán các em còn lúng túng trước những khái niệm, những thuật ngữ toán học. - Các em chưa nắm được bản chất của dạng toán nên đưa ra cách giải sai hoặc rập khuôn máy móc theo bài mẫu. - Học sinh còn lúng túng khi gặp những bài toán có cấu trúc giống nhau về nội dung nhưng câu hỏi khác nhau.Khả năng suy luận của học sinh còn hạn chế dẫn đến máy móc, bắt chước, chỉ giải được các dạng toán có sẵn, khi gặp bài toán ở dạng biến đổi thì không làm được. - Kĩ năng tính toán còn thiếu chính xác dẫn đến khi giải toán hay sai kết quả. - Một số em chưa biết cách đặt lời giải cho yêu cầu của bài toán, chưa biết cách trình bày bài toán. ( Do chưa phân tích được bài toán, chưa biết cách giải bài toán ) . 3. Kết quả khảo sát: Từ thực trạng trên, ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành ra đề bài khảo sát, từ đó biết những lỗi mà học sinh thường mắc để có biện pháp giúp đỡ. Đối tượng khảo sát : Học sinh lớp 3B Trường Tiểu học Đông Xu©n - Đông Sơn- Thanh Hóa. 3 Lop4.edu.vn

  4. Số học sinh tham gia khảo sát : 22 em Đề khảo sát gồm 2 bài toán có liên quan đến rút vế đơn vị dạng a : b x c Kết quả khảo sát: + Số học sinh làm đúng cả 2 bài : 2 em chiếm tỉ lệ 9% + Số học sinh làm được cả 2 bài nhưng lời giải còn chưa phù hợp: 7em chiếm tỉ lệ 31,8 % + Số học sinh chỉ làm đúng được 1 bài: 10em chiếm tỉ lệ 45,4% + Số hoc sinh chưa biết đặt lời giải hoặclàm tinh nhân chia chưa thạo: 3 em chiếm tỉ lệ 13,6% Nhận xét kết quả qua bài khảo sát:Chất lượng làm bài của học sinh còn thấp. Cụ thể nhiều em còn chưa xác định được cái cần tìm nên giải sai phép tính, sai câu lời giải hoặc câu lời giải chưa chính xác, chưa phù hợp với phép tính, có học sinh trình bày lời giải chưa đủ ý. III. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: Để giúp học sinh nắm vững dạng toán và biết cách giải các bài toán dạng “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị” người giáo viên cần nắm được mối quan hệ giữa dạng toán với các kiến thức liên quan đó là:Trước khi học dạng toán này, học sinh đã được các dạng: “Tìm các phần bằng nhau của một số”, “Gấp một số lên nhiều lần”, “Bài toán giải bằng hai phép tính”.…Dạng bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị được đề cập ở sách giáo khoa Toán 3 qua 1 tiết hình thành kiến thức mới (tiết 122) sau đó là 2 tiết luyện tập (tiết 123,124). Khi đã xác định được vị trí của dạng toán “Bài toán toán liên quan đến việc rút về đơn vị” trong chương trình Toán 3 tôi đã áp dụng một số biện pháp sau: * Biện pháp 1: Phân loại đối tượng để nắm rõ trình độ, nhận thức của từng học sinh trong lớp Muốn tiến hành dạy học hiệu quả thì người dạy cần phải hiểu được trình độ nhận thức của người học, nhằm hướng các hoạt động của học sinh vào mục đích chung của tập thể, phân loại đối tượng và lựa chọn nội dung, phương pháp truyền đạt phù hợp. Nếu giáo viên dạy không hiểu được tính cách, khí chất, năng khiếu của học sinh dẫn đến quá trình dạy học khó phát huy được sở trường và những tiềm năng vốn có của các em, dẫn đến các em sẽ bị mệt mỏi, nhàm chán. Bởi, trong một tập thể học sinh luôn có những cá nhân với đặc điểm tâm lý riêng, có người rụt rè, nhút nhát; có người mạnh dạn, năng nổ, nhiệt tình, cần cù, chịu khó; có người rất mạnh về mặt này, yếu về mặt khác… Nắm vững được đặc điểm trên thì trong dạy học, GV sẽ thực hiện tốt quá trình cá biệt hóa, nhất là đối với số học sinh có đặc điểm tính cách, khí chất khác biệt. Hơn nữa, hiểu rõ tính cách, khí chất, năng khiếu học sinh sẽ giúp GV biết cách tổ chức lớp học, xây dựng lực lượng nòng cốt, cá nhân điển hình tiên tiến thúc đẩy tập thể lớp phát triển. Ngoài ra, GVquan tâm đến hoàn cảnh, đặc điểm tâm lý của mỗi học sinh và nhất là học sinh có hoàn cảnh khó khăn, từ đó lựa chọn liệu pháp tâm lý phù hợp để dẫn dắt, hướng các em phát triển theo chiều hướng tích cực. Căn cứ vào chất lượng học sinh của lớp, tôi có thể phân loại như sau: - Nhóm 1: Những học sinh có khả năng giải toán ( 10 em) 4 Lop4.edu.vn

  5. - Nhóm 2: Những học sinh giải toán chậm (12 em) Việc phân loại học sinh giúp giáo viên định hướng cho các hoạt động dạy học phát huy tính tích cực của mỗi em Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động nhóm, nếu giáo viên muốn kèm riêng cho một số học sinh yếu trong lớp thì sẽ chia các em vào một nhóm Khi học nhóm cần sự hợp tác, chia sẻ giáo viên chia nhóm có nhiều đối tượng học sinh để các em giúp đỡ nhau để hoàn thành công việc (bài tập) Hoặc giáo viên tổ chức nhiều “cặpđôi”“Đôi bạn cùng tiến” trong lớp có cùng sở thích (đôi bạngần nhà, đôi bạn cùng bàn,…) để giúp nhau trong học tập. Hàng tuần giáo viên có sự kiểm tra và tuyên dương kịp thời nếu mỗi học sinh có sự tiến bộ, đồng thời phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập. * Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài nhận dạng bài toán. a- Đối với bài hình thành kiến thức mới: Khi tiến hành giải bài toán có lời văn việc đầu tiên phải làm là đọc và tìm hiểu kĩ đề bài. Song trình độ ngôn ngữ của các em còn hạn chế hơn nữa để hiểu đúng các thuật ngữ, khái niệm toán học lại càng khó hơn nên các em thường bị lúng túng dẫn đến việc tìm hiểu đề bài còn mơ hồ sai lệch không đúng bản chất của dạng toán. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh giải toán cần hướng dẫn đọc kĩ đề bài hiểu được cách diễn đạt bằng lời của bài toán, xác định được các yếu tố đã cho và yêu cầu cần tìm. * Tìm hiểu đề bài: Đối với tiết hình thành kiến thức mới tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề như sau: Bài toán 1: (trang128 SGK Toán3) “Có 35 lít mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong?” Đây là bài toán đơn học sinh đã biết cách làm ở các tiết học trước nên khi học sinh đã đọc đề bài nhiều lần, tôi yêu cầu học sinh bằng các lệnh: + Hãy gạch một gạch dưới cái đã cho biết. + Hãy gạch hai gạch dưới yêu cầu của bài. Sau đó tôi yêu cầu học sinh diễn đạt bài toán bằng lời theo cách hiểu của mình. Bước tiếp theo cần làm sau khi các em tìm hiểu đề bài là cho các em hiểu rõ một số khái niệm, thuật ngữ là “mấu chốt” để giải bài toán bằng cách đặt câu hỏi: + Em hiểu “chia đều” ở bài toán này là chia như thế nào? + Bài toán yêu cầu tìm “mỗi can” tức là tìm mấy can? Nếu học sinh chưa hiểu đúng được khái niệm này tôi sẽ giải thích để các em rõ “chia đều”ở bài toán này là chia vào các can mà mỗi can có số lượng mật ong như nhau, “mỗi can” ở đây cần hiểu là một can. Tương tự, khi cho học sinh giải các bài tập trong tiết hình thành kiến thức mới hoặc các bài toán cùng dạng nhưng nội dung câu hỏi khác nhau tôi đều cho học sinh tự giải thích để hiểu rõ thêm về các khái niệm, thuậtngữ có trong bài. Như vậy, khi gặp các bài toán dạng này các em không còn cảm thấy bỡ ngỡ hay lúng túng nữa. Cụ thể: Đối với các bài tập phần luyện tập trang 128 của tiết hình thành kiến thức mới: 5 Lop4.edu.vn

  6. Bài1: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc có bao nhiêu viên thuốc? Bài 2: Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó bao nhiêu kg gạo? Khi cho học sinh làm các bài toán trên tôi đều cho các em tìm hiểu các khái niệm “chứa đều”, “đựng đều”… tất cả các khái niệm này đều cho ta biết số lượng thuốc ở mỗi vỉ, số kg gạo ở mỗi bao …đều bằng nhau. *Tóm tắt bài toán Nhiều giáo viên khi dạy học sinh giải toán có lời văn thường xem nhẹ hoặc không chú ý đến việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề. Theo tôi, khi học sinh biết tóm tắt đề toán tức là các em đã hiểu được nội dung của bài toán là bài toán cho biết gì, bài toán yêu cầu tìm gì. Có nhiều cách tóm tắt nội dung bài toán: tóm tắt bằng lời, tóm tắt bằng hình vẽ, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng,…....Đối với dạng toán liên quan đến việc rút về đơn vị, chủ yếu tôi hướng dẫn Ở bài toán 1 phần hình thành kiến thức mới tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt như sau: 7 can : 35 l mật ong 1 can : ? l mật ong Với bài toán 2 học sinh tóm tắt tương tự: 7can : 35l mật ong 2 can : ? l mật ong Lưu ý học sinh khi tóm tắt bằng lời thì các giá trị của cùng một đại lượng phải trình bày thẳng cột. Với bài toán 1, bài toán 2 phần luyện tập của tiết hình thành kiến thức mới, các bài toán này không có tóm tắt mẫu nên sau khi tìm hiểu đề bài xong tôi yêu cầu học sinh tự tóm tắt bài toán. Đa số các em tự tóm tắt được bài toán trước khi giải, xong cũng có một số học sinh tóm tắt như sau: Với bài toán 1: 7 bao có : 28 kg ? kg : 5 bao Hay với bài toán 2: 4 vỉ thuốc : 24 viên ? viên : 5 vỉ thuốc Với những trường hợp học sinh tóm tắt như trên giáo viên phải hướng dẫn học sinh sửa luôn như sau: 7 bao : 28 kg 5 bao : ? kg Hay: 4 vỉ thuốc : 24 viên 5 vỉ thuốc : ? viên Đối với những em học sinh yếu, sau khi tóm tắt xong, tôi yêu cầu các em diễn đạt lại nội dung bài toán thông qua tóm tắt để các em nắm vững hơn nội dung bài toán. lời. học sinh tóm tắt bằng 6 Lop4.edu.vn

  7. * Hướng dẫn học sinh giải bài toán Sau khi học sinh đã tìm hiểu và nắm vững các khái niệm, thuật ngữ trong đề bài, tóm tắt được bài toán tôi cho học sinh giải bài toán 1 vào giấy nháp và gọi 1 học sinh lên bảng trình bày bài giải Bài giải : Số lít mật ong trong mỗi can là : 35 : 7 = 5 ( l ) Đáp số : 5 l mật ong Bài toán này là bước đệm để các em giải bài toán 2 trong tiết học nên khi học sinh giải xong tôi hỏi lại để củng cố cách giải : + Muốn tìm mỗi can hay một can có mấy lít mật ong ta làm thế nào? (ta làm tính chia: lấy số lít mật ong chia cho số can). Giáo viên nhấn mạnh: Muốn tìm mỗi can hay một can có bao nhiêu lít mật ong ta phải thực hiện phép tính chia. Sau khi học sinh giải xong bài toán thứ nhất tôi yêu cầu cả lớp đọc và giải bài toán thứ hai. Do đã được hiểu rõ các khái niệm, các bước giải ở bài toán 1 nên khi tìm hiểu bài toán 2 tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán bằng các câu hỏi gợi mở: + Muốn tìm hai can có mấy lít mật ong ta phải biết gì? (Phải biết số lít mật ong ở mỗi can hay một can) + Số lít mật ong ở mỗi can đã cho biết chưa?(chưa cho biết) Giáo viên nhấn mạnh: Vậy ta phải tìm số lít mật ong ở một can. Sau đó ta mới tìm số lít mật ong trong 2 can. Giáo viên khẳng định trình tự giải bài toán: 1.Tìm số lít mật ong ở một can. 2.Tìm số lít mật ong ở 2 can. Giáo viên hỏi tiếp: Tìm số lít mật ong ở một can có tìm được không? (tìm được như cách làm ở bài toán 1) Giáo viên yêu cầu học sinh giải bài toán. Bài giải: 1 can đựng số lít mật ong là: 35 : 7 = 5 ( l ) 2 can đựng được số lít mật ong là: 5 x 2 = 10 ( l ) Đáp số : 10 l mật ong Học sinh giải xong bài toán 2, tôi cho học sinh tìm các câu lời giải khác cho bài toán. Học sinh nêu các câu lời giải khác cho bài toán như: Số lít mật ong ở mỗi can là: 35 : 7 = 5 ( l ) Số lít mật ong trong 2 can là: 5 x 2 = 10 ( l ) 7 Lop4.edu.vn

  8. Đáp số : 10 l mật ong Tôi lưu ý cho học sinh trong bài toán không chỉ có một câu lời giải mà có thể có nhiều câu lời giải khác nhau ta có thể chọn câu lời giải ngắn gọn và phù hợp nhất. Sau khi hướng dẫn học sinh giải xong bài toán 2 giáo viên củng cố cho học sinh về dạng toán. Giáo viên nhấn mạnh : + Đây là bài toán thuộc dạng toán “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị”, khi giải bài toán này ta giải qua mấy bước? (2 bước) + Đó là những bước nào? ( bước 1: Tìm giá trị của 1 phần). (bước 2: Tìm giá trị của nhiều phần). + Bước 1 ta phải thực hiện phép tính gì? (Thực hiện phép chia). + Bước 2 ta phải thực hiện phép tính gì? (Thực hiện phép tính nhân). + Trong 2 bước giải trên bước nào là bước rút về đơn vị? (Bước 1 là bước rút về đơn vị) Hình thành cho học sinh cách giải và các bước giải của dạng toán này tôi cho học sinh làm bài tập 1 và bài tập 2 phần luyện tập để học sinh được luyện tập và củng cố cách giải. Bài 1: Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc? Bài 2: Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu kg gạo? Hai bài tập này tôi cho học sinh tự tóm tắt bài toán và giải vào vở. Tôi cho một vài em lên bảng trình bày bài làm của mình và tôi cho học sinh nhận xét bài làm của nhau rồi kết luận cách làm đúng. Đến phần củng cố bài tôi cho học sinh nhắc lại một lần nữa cách giải dạng toán này như sau: +Bài toán liên quan đến rút về đơn vị phải giải qua mấy bước? Đó là những bước nào? Bước nào là bước rút về đơn vị? Và vì sao bước này gọi là bước rút về đơn vị? Giáo viên nhấn mạnh: Bước tìm một can mật ong chứa bao nhiêu lít, một vỉ thuốc có bao nhiêu viên thuốc, một bao gạo đựng được mấy kg (tức là tìm 1 đơn vị) là bước rút về đơn vị. Khi giải dạng toán này bao giờ ta cũng phải thực hiện bước tìm 1 đơn vị . b. Đối với tiết luyện tập: Khi học sinh đã hình thành được cách giải bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị ở tiết hình thành kiến thức mới, sang tiết luyện tập học sinh tiếp tục được luyện tập củng cố để các em nắm vững hơn về cách giải dạng toán này. Cụ thể: * Phần tìm hiểu đề : Các bài tập của tiết luyện tập có những khái niệm nào các em chưa gặp tôi dều cho các em tìm hiểu và nắm vững . Ở tiết 124 tiết luyện tập : Bài 1: Có 4500 đồng mua được 5 quả trứng. Hỏi nếu mua 3 quả trứng như thế thì hết bao nhiêu tiền ? 8 Lop4.edu.vn

  9. Bài 2: Muốn lát nền một căn phòng như nhau cần 2550 viên gạch . Hỏi muốn lát nền 7 căn phòng như thếcần bao nhiêu viên gạch? Các bài toán này các em chưa hiểu khái niệm “như thế” tôi phải giải thích cho học sinh hiểu “ như thế” ở đây là mỗi quả trứng được mua với giá tiền như nhau hay mỗi căn phòng được lát số viên gạch như nhau. Sau khi học sinh tìm hiểu đề bài xong, tôi cho học sinh tiếp tục các bước tiếp theo của quy trình giải bài toán có lời văn mà các em vẫn thường làm. Đối với các bài tập ở tiết luyện tập ngoài việc củng cố cách giải dạng toán, giáo viên cần chú trọng đến việc giúp các em nâng cao kĩ năng giải toán như kĩ năng tóm tắt bài toán, kĩ năng trình bày bài giải, kĩ năng đặt đề toán … * Biện pháp 3: Giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy trong từng tiết học để hướng dẫn học sinh học tập một cách chủ động, tích cực. Trong giờ dạy học sinh giải toán nhiều giáo viên còn giữ vai trò là người truyền thụ, cung cấp cho học sinh. Vì thế kiến thức mà học sinh tiếp thu được còn thụ động, máy móc, chủ yếu là làm theo khuôn mẫu hay bắt chước nên các em dễ quên. Nhiều giáo viên khi tiếp cận với phương pháp mới đang còn lúng túng nên ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Hình thức tổ chức dạy học của nhiều giáo viên còn đơn điệu nên giờ học nhàm chán, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Vì thế, khi dạy học sinh giải toán tôi luôn chú trọng đến việc đổi mới phương pháp trong từng bài dạy lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng phần nội dung kiến thức của tiết học. Với giờ học toán các hình thức mà tôi thường sử dụng là học cá nhân, nhóm, trò chơi,...Các hình thức tổ chức dạy học linh hoạt phù hợp trong từng tiết học sẽ đem lại cho học sinh bầu không khí học tập vui vẻ, sôi nổi khiến các em cảm thấy thoải mái tự tin hơn trong học tập. Cụ thể trong khi dạy học sinh giải toán dạng “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” * Đối với bài hình thành kiến thức mới: Tôi đã lựa chọn các hình thức dạy học khác nhau như cá nhân, nhóm, cả lớp. Bài toán 1: Có 35 l mật ong đựng đều trong 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? Đây là bài toán đơn các em có thể tự giải được nên sau khi cho các em tìm hiểu một số khái niệm trong bài toán tôi yêu cầu các em làm việc cá nhân. Bài toán 2: Có 35 l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy l mật ong? Bài toán này là bài toán mẫu, thông qua cách giải bài toán này để hình thành cách giải của dạng toán có yêu cầu cao hơn, phức tạp hơn nên sau khi cho học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tôi tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để tìm các bước giải sau đó học sinh sẽ giải cá nhân. Với 2 bài tập phần luyệntập, tôi cho học sinh tự giải theo hình thức cá nhân, 1 học sinh lên bảng trình bày bài giải sau đó học sinh dưới lớp đối chiếu kết quả nhận xét cách giải đúng. * Đối với tiết luyện tập: 9 Lop4.edu.vn

  10. Bài 1: Trong vườn ươm, người ta đã ươm 2032 cây giống trên 4 lô đất, các lô đều có số cây như nhau. Hỏi mỗi lô đất có bao nhiêu cây giống? Bài 2: Có 2135 quyển vở được xếp đều vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng có bao nhiêu quyển vở? Bài 3: Lập đề toán theo tóm tắt sau rồi giải bài toán đó: Tóm tắt : 4 xe : 8520 viên gạch 3 xe :………viên gạch Yêu cầu của tiết luyện tập này là rèn kĩ năng giải “Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị. Bài 1 là bài toán đơn giải bằng 1 phép tính nên học sinh tự giải. Bài 2 các em đã biết cách giải xong để mọi đối tượng học sinh trong lớp có thể làm được bài tôi cho học sinh thảo luận nhanh theo nhóm đôi để nêu các bước giải sau đó các em tự giải cá nhân vào vở. Còn với bài 3, bài tập này có yêu cầu mới hơn, cao hơn nên để các em hoàn thành tốt bài tập này, tôi chia lớp thành các nhóm mỗi nhóm khoảng 4 em, tổ chức cho các nhóm thi đặt đề toán theo tóm tắt, thi giải nhanh giải đúng bài toán. Như vậy các em sẽ biết cách đặt đề toán theo tóm tắt và việc đặt đề toán về dạng toán này không còn là việc làm khó khăn với các em nữa. Với hình thức này các em sẽ cùng phối hợp thi đua nhau làm việc, tất cả đều tham gia hoạt động học tập, không khí lớp học sẽ sôi nổi, đạt hiệu quả cao hơn. Giáo viên cần lưu ý khi học sinh tự xây dựng đề toán các em thường mắc khuyết điểm như : các số liệu chọn thiếu chính xác, xa thực tế. Vì vậy giáo viên cần giúp học sinh sửa chữa những lỗi đó để giúp các em rèn luyện tư duy. Ngoài các cách làm trên, để giờ học đạt kết quả cao nhất là giờ học giải toán có lời văn, người giáo viên cần phải động viên khuyến khích học sinh học tập chủ động, sáng tạo theo năng lực cá nhân. Như vậy, thực tế giảng dạy cho thấy: Nếu giáo viên biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hợp lý sẽ giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động vững chắc, giờ học đạt hiệu quả cao. * Biện pháp 4: Cá thể hóa hoạt động dạy học sao cho tất cả HS đều được hoạt động, đều được làm việctrong giờ học. Đây là một trong những định hướng quan trọng của việc đổi mới PPDH Toán ở Tiểu học. Đây là một cách dạy học bám sát nguyên tắc“Dạy học thông qua các hoạt động bằng taycủa bản thân từng trẻ em Ví dụ: Bài toán: Cã 5 thïng chøa 6250 quyÓn vë. Hái 8 thïng nh- thÕ chøa bao nhiªu quyÓn vë? ( Sè quyÓn vë trong mçi thïng nh- nhau) Giả sử GV muốn yêu cầu HS xác định yêu cầu của một bài toán nào đó. Ta so sánh hai cách dạynhư sau: + Cách 1: Đàm thoại: GV hỏi cả lớp: “Em hãy cho cô biết bài toán này hỏi gì? Ai biết giơ tay?” Thế thì không có gì bảo đảm là cả lớp đều suy nghĩ để xác định câu hỏi của bài toán. Bởi vì thường thường có một số học sinh giơ tay; thậm chí một, hai em giơ tay xin trả lời. 10 Lop4.edu.vn

  11. Do đó, ta chỉ có thể khẳng định chắc chắn là trong lớp chỉ có một bộ phận học sinh (hoặc một, hai em) có suy nghĩ. Nhưng trên thực tế chỉ có một em được GV chỉ định lên trả lời, do đó chỉ có một em được thực sự làm việc. + Cách 2:Tổ chức làm việc: GV nêu lệnh: Giơ bút chì! (Cả lớp giơ bút chì). Gạch dưới câu hỏi của bài toán! (Cả lớp, nghĩa là mỗi HS, đều phải chú ý đọc đề toán trong SGK để xác định câu hỏi rồi gạch dưới). Trong lúc này, GV đi xuống cạnh các HS để đôn đốc các em làm việc, giúp đỡ các em kém. GV có thể đưa mắt nhìn bao quát cả lớp, hễ thấy HS nào không cầmbút chì gạch thì chỉ phải nhắc nhở riêng học sinh ấy làm việc. Nhờ có những lệnh làm việc bằng taynày mà những HS không chịu làm việc sẽ “bị lộ”ra do đó GV có thể kiểm soát được hoạt động của cả lớp. Sau khi quan sát thấy đa số HS đã gạch xong thì GV có thể cho một em đọc xem mình đã gạch dưới câu nào để cả lớp nhận xét Như vậy, trong dạy học tích cực, việc tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp sao cho từng cá nhân trong lớp học đều được tham gia là hết sức quan trọng. Công việc này đòi hỏi người GV phải có sự chuẩn bị chu đáo trong quá trình lập kế hoạch bài học trước khi lên lớp. * Biện pháp 5: Quan tâm đến việc giúp học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi khi viết lời giải của bài toán Thực tế cho thấy khả năng viết lời giải đúng ở lớp tôi phụ trách còn thấp. Một số lỗi học sinh thường mắc phải khi viết lời giải: + Nội dung lời giải sai lệch với phép tính tương ứng: Bài toán hỏi “số hộp bút” thì các em trả lời “số bút trong hộp”. Bài toán hỏi “số quả cam còn lại”thì các em trả lời “số cam có”hoặc “số cam bán”. . . Ví dụ: Bài toán: “Người ta xếp 800 cái bánh vào cái hộp, mỗi hộp 4 cái. Hỏi xếp được bao nhiêu hộp bánh” Có đến 6 học sinh trong lớp làm lời giải như sau: Mỗi hộp có số cái bánh là: 800 : 4 = 200 ( hộp) Trong trường hợp này tôi nhận thấy học sinh chưa hiểu bản chất của đề. Trong quá trình giúp học sinh chữa bài tôi đã hướng dẫn các em bám vào câu hỏi là: “ Hỏi xếp được bao nhiêu hộp bánh?” thì chỉ cần gợi ý cho các em sửa lại câu hỏi một chút là ra lời giải: “Số hộp bánh xếp được là:” + Câu văn sai, lúng túng do sắp xếp các từ ngữ sai trật tự. Ví dụ: Học sinh viết lời giải “Số kí lô gam con vịt nặng gắp số lần con ngỗng là: “ + Diễn đạt thừa (hoặc thiếu hoặc chưa chuẩn xác) dẫn đến câu sai ngữ nghĩa. 11 Lop4.edu.vn

  12. Ví dụ: Lời giải “Số đường công nhân phải sửa là:” ( sửa lại: “§oạn đường công nhân phải sửa là:” hoặc “Quãng đường công nhân phải sửa là:”) Để khắc phục lỗi này, giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩlại đề toán để hiểu nội dung bài toán, trong đó lưu ý cho học sinh đọc 2-3 lần câu hỏi của bài toán để hiểu bài toán hỏi gì.Từ đó học sinh nắm chắc được nội dung bài toán và ít bị nhầm lẫn và dựa vào câu hỏi để viết lời giảicủa bài toán một cách chính xác và đầy đủ. IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Sau một quá trình dạy học trên thực tế, với những biện pháp nêu trên tôi đã không ngừng uốn nắn, giúp học sinh luyện tập, vận dụng để hình thành kĩ năng trong giải toán có lời văn dạng“ Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a: b x c. Tôi đã ra đề bài khảo sát lại chất lượng làm bài của học sinh. Kết quả thực nghiệm cụ thể như sau: + Số học sinh làm đúng cả 2 bài : 7 em chiếm tỉ lệ 31,8 % + Số học sinh làm được cả 2 bài nhưng lời giải còn chưa phù hợp: 10 em chiếm tỉ lệ 45,4 % + Số học sinh chỉ làm đúng được 1 bài: 5 em chiếm tỉ lệ 22,7 % + Số hoc sinh chưa biết đặt lời giải hoặc làm tính nhân chia chưa thạo: 0 em Qua các bài kiểm tra, qua việc học và làm bài của học sinh tôi thấy: Việc áp dụng cách làm trên vào dạy học giải toán có lời văn đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. Học sinh lớp 3 tại trường Tiểu học Đông Xu©nkhi được trực tiếp giảng dạy theo cách làm trên, các em đã nắm được bản chất dạng toán, nắm được các bước giải, biết tóm tắt và trình bày bài giải một cách thành thạo. Các em không còn cảm thấy lúng túng, thiếu tự tin khi gặp những bài toán có lời văn dạng trên. Ngoài ra việc học tập theo cách trên còn giúp tư duy các em linh hoạt hơn, các em không còn cảm thấy ngại học toán. Những giờ học toán của các em đã sôi nổi hơn, các em mất hẳn tính rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin trong học tập. Chất lượng học tập được khắc phục, không còn học sinh yếu kém, học sinh khá giỏi được nâng cao. C. KẾT LUẬNVÀ ĐÒXUẤT I. KẾT LUẬN Bằng kiến thức học hỏi được và bằng những kinh nghiệm của bản thân được áp dụng trong quá trình dạy học toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng, đặc biệt là hướng dẫn học sinh giải các bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c là nền tảng cho học sinh nắm vững hơn bài toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 và bài toán về quan hệ tỉ lệ ở lớp 5. Qua đó, tôi đã rút ra một số bài học cho mình muốn nâng cao chất lượng trong việc dạy học giải toán có lời văn, cần: * Đối với học sinh: - Tăng cường học tập toán, đặc biệt là giải toán. - Tập trung nghe giảng, có tinh thần tự học tự rèn, tự giác học tập. - Học thuộc tất cả quy tắc, công thức,cách giải toán theo từng dạng. - Nắm được quy trình giải toán có văn. - Tham khảo nhiều sách, tìm hiểu các đề toán hay. 12 Lop4.edu.vn

  13. * Đối với giáo viên: - Cần nắm vững nội dung chương trình, bản chất của dạng toán để có những phương pháp dạy học phù hợp, huy động được những hiểu biết vốn có của học sinh để giúp học sinh tự chiếm lĩnh, khắc sâu phương pháp, kĩ năng giải toán. Trong giảng dạy cần chú ý từng khâu, từng phần nội dung, từng khái niệm, từng thuật ngữ toán học giúp học sinh nắm vững kiến thức. - Chú trọng việc dạy học giải toán có lời văn. - Nắm vững quy trình giải toán có văn. - Chuẩn bị tốt nội dung, hệ thống câu hỏi đưa ra khai thác. - Quan tâm đến từng đối tượng học sinh. - Kịp thời uốn nắn sửa sai cách làm bài, trình bày bài làm của học sinh. - Giáo viên phải luôn linh hoạt, năng động, sáng tạo trong công tác giảng dạy không nên phụ thuộc hoàn toàn vào sách giáo viên.Tăng cường sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực của học sinhnhư học cá nhân, nhóm, học trên phiếu, tham gia các trò chơi toán học. - Giáo viên thể hiện tính kiên trì, bền bỉ, nhiệt tình, hết lòng vì học sinh. - Việc kiểm tra đánh giá học sinh cần thường xuyên và nhiều hình thức để giáo viên kịp thời bổ sung, sửa lỗi sai cho học sinh. II. ĐỀ XUẤT *Đối với nhà trường: Bổ sung thêm tài liệu, sách tham khảo đểgiáo viên có điều kiện học hỏi, nâng cao hơn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ, khối tạo điều kiện để giáo viên trao đổi kinh nghiệm dạy học cho nhau. *Đối với Phòng Giáo dục và các cấp quản lý: Tạo điều kiện về cơ sở vật chất cũng như tinh thần để giáo viên yên tâm giảng dạy. Hàng năm có tổng kết, báo cáo kinh nghiệm, phương pháp cải tiến dạy học để giáo viên trong các trường có điều kiện học những kinh nghiệm hay, những sáng kiến giỏi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra từ thực tế giảng dạy. Vì điều kiện thời gian có hạn, tôi chỉ đề cập đến dạng toán: Bài toán liên quan đến việc rút về đơn vị dạng a : b x c. Mặc dù mạnh dạn đề xuất nhưng chắc chắn còn những hạn chế nhất định mà bản thân tôi còn phải cố gắng nhiều hơn nữa. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn chỉnh mang lại hiệu quả cao hơn giúp tôi thực hiện tốt nhiệm vụ và nâng cao hơn về chất lượng giảng dạy của mình. . Tôi xin chân thành cảm ơn! Thanh Hoá, ngày 28 tháng 3 năm 2016 XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNGTôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. NGƯỜI VIẾT 13 Lop4.edu.vn

  14. NguyÔn ThÞ V©n Anh 14 Lop4.edu.vn

  15. Së gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Thanh Hãa Phßng GD & ®µo t¹o huyÖn ®«ng s¬n Trêng tiÓu häc ®«ng xu©n ~~~~~~*****~~~~~~ S¸ng kiÕn kinh nghiÖm S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh líp 3 n¾m v÷ng c¸ch gi¶i bµi to¸n liªn quan ®Õn rót vÒ ®¬n vÞ d¹ng a:b x c Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ V©n Anh Chøc vô: Gi¸o viªn §¬n vÞ c«ng t¸c : Trêng tiÓu häc §«ng Xu©n SKKN thuéc lÜnh vùc ( m«n) : To¸n Thanh hãa n¨m: 2015-2016 15 Lop4.edu.vn

  16. Së gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Thanh Hãa Phßng GD & ®µo t¹o huyÖn ®«ng s¬n Tr- êng tiÓu häc ®«ng xu©n ~~~~~~*****~~~~~~ S¸ng kiÕn kinh nghiÖm S¸ng kiÕn kinh nghiÖm Mét sè biÖn ph¸p gióp häc sinh líp 3 n¾m v÷ng c¸ch gi¶i bµi to¸n liªn quan ®Õn rót vÒ ®¬n vÞ d¹ng a:b x c Ng- êi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ V©n Anh Chøc vô: Gi¸o viªn §¬n vÞ c«ng t¸c : Tr- êng tiÓu häc §«ng Xu©n SKKN thuéc lÜnh vùc ( m«n) : To¸n Thanh hãa n¨m: 2015-2016 16 Lop4.edu.vn

  17. 17 Lop4.edu.vn

  18. 18 Lop4.edu.vn

  19. 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23. 24. 25. 19 Lop4.edu.vn

  20. 26. 27. 28. ........................................................................... 1/Phương pháp chung để giải các bài toán: Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: *Bước 1: Đọc kĩ đề toán. *Bước 2: Tóm tắt đề toán. *Bước 3: Phân tích bài toán. *Bước 4: Viết bài giải. *Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: a/ Đọc kĩ đề toán:Học sinh đọc ít nhất 3 lần mục đích để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệgiữa các dữ kiện với ẩn số. Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. b/ Tóm tắt đề toán:Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi.Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các cách sau tới học sinh: *Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. * Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu. * Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. *Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng. *Cách 5: Tóm tắt bằng lưu đồ. * Cách 6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven. * Cách 7: Tóm tắt băng kẻ ô. Tuy nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ nhất,điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài. c/ Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi thông thường: -Bài toán cho biết gì? - Bài toán hỏi gì? - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? - Cái này biết chưa? - Còn cái này thì sao? - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào? Hướng dẫn học sinh phân tíchxuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. d/ Viết bài giải:Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. e/ Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán va phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải. 20 Lop4.edu.vn

  21. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. ………………………. Bước 1: Đọc kĩ đề toán Là một công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, các em có đọc kĩ đề mới nắm bắt được các dữ kiện của bài toán, nếu đọc qua loa sẽ hiểu nhầm, hiểu sai về mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán và gây khó khăn cho bước tiếp theo. Gạch dưới một số thuật ngữ toán quan trọng có trong đề bài. Chẳng hạn:“ kém 2 lần”, “ hơn 2 đơn vị”,“ gấp 3 lần”,“ bằng một phần ba”... Ở bước này tôi luôn gọi những em giải toán chưa tốt đọc đề bài nhiều lần và nhấn mạnh ở những dữ kiện của bài toán và giúp cho học sinh hiểu một số thuật ngữ của bài toán. Bước 2: Tóm tắt đề toán Đây là dạng diễn đạt ngắn gọn đề toán, tóm tắt đúng sẽ giúp cho học sinh có cách giải dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Nhìn vào tóm tắt là định ra các bước giải bài toán. Có 4 cách tóm tắt đề toán: - Cách 1: Dưới dạng câu ngắn - Cách 2: Dưới dạng sơ đồ đoạn thẳng - Cách 3: Dưới dạng hình vẽ - Cách 4: Tóm tắt bằng kí hiệu Tuỳ vào dạng toán mà tôi hướng dẫn cho các em cách tóm tắt phù hợp Khi tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc hình vẽ cần phải đảm bảo tính cân đối, chính xác. Ở những dạng toán học sinh mới gặp lần đầu, giáo viên có thể làm mẫu tóm tắt. Sau đó nên gợi ý, hướng dẫn học sinh tự mình tóm tắt đề toán thì tốt hơn. Sau khi tóm tắt xong giáo viên cho học sinh nhắc lại ngắn gọn đề toán ( bằng tóm tắt) mà không cần nhắc lại nguyên văn. Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Bước phân tích đề toán để tìm ra cách giải là bước quan trọng nhất trong quá trình giải một bài toán của học sinh, đồng thời cũng là bước khó khăn nhất đối với các em.Vì vậy khi giải một bài toán tôi thường xuyên rèn luyện, hướng dẫn các em phân tích từng bước một cách rõ ràng, chính xác thông qua hệ thống câu hỏi, câu trả lời ngắn gọn, dễ hiểu. dần dần các em sẽ quen dần và sẽ biết phân tích, lập sơ đồ phân tích bài toán trong khi giải một cách đúng đắn và nhanh chóng. Ví dụ: Bài 1/50 (SGK) Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh7 tấm bưu ảnh. Hỏi hai anh em có tất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh? Ta có thể dùng phương pháp phân tích để hướng dẫn học sinh suy luận như sau: H:Bài toán hỏi gì? ( Hai anh em có tất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh) H:Muốn biết hai anh em có tất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh ta làm như thế nào?( Lấy số bưu ảnh của anh cộng với số bưu ảnh của em) H: Số bưu ảnh của anh biết chưa? ( Biết rồi ) H:Số bưu ảnh của em biết chưa? ( Chưa biết). Muốn tìm số bưu ảnh của em ta làm thế nào? (Lấy số bưu ảnh của anh trừ đi 7 ) Có thể ghi vắn tắt quá trình phân tích trên bằng sơ đồ: Tất cả ! ! Anh + Em ! ! Anh – 7 Khi phân tích một bài toán cần hướng dẫn cho học sinh có thói quen tự đặt câu hỏi, chẳng hạn: +Bài toán hỏi gì? +Muốn trả lời câu hỏi của bài toánphải biết gì? Phải thực hiện những phép tính gì, và từ những dữ kiện đã cho có thể biết được gì? Muốn biết thì phải làm phép tính gì?Làm phép tính đó có cần thiết cho việc trả lời câu hỏi của bài toán không?... Khuyến khích hướng dẫn học sinh biết nhận xét, tìm cách giải bài toán bằng nhiều phương pháp khác nhau, đồng thời biết chọn cách giải hay nhất, đơn giản nhất. Điềuđó có tác dụng rất lớn trong việc phát huy tính sáng tạo, rèn luyện tư duy linh hoạt, phát triển trí thông minh. Đồng thời nó đem lại niềm hứng thú cho học sinh trong khi học toán. Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải 21 Lop4.edu.vn

  22. Sau khi học sinh đã tìm được cách giải bài toán bằng phương pháp phân tích, lập sơ đồ giải toán,thì việc trình bày bài giải không phảilà bước khó khăn lắm đối với các em.Tuy vậy cũng cần hướng dẫn cho các em bết viết lời giải và trình bày bài giải một cách khoa học rõ ràng, chính xác và đầy đủ theo phương pháp tổng hợp, ngược với phương pháp phân tích để tìm lời giải. Chẳng hạn, đối với bài toán ở ví dụ 1, từ sơ đồ này ta có thể đi ngược từ dưới lên để trình bày bài giải như sau: Bài giải: Số bưu ảnh của em là: 15 –7 = 8 ( tấm) Tất cả số bưu ảnh của hai anh em là: 15 + 8 = 23 ( tấm ) Đáp số:23 tấm bưu ảnh Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Việc giúp cho học sinh có thói quen tự kiểm tra lại kết quả của bài toán đã tìm ra là một việc rất quan trọng, vì nó giáo dục các em đức tính cẩn thận, chu đáo, ý thức trách nhiệm với công việc mình làm. Có thể dùng các hình thức kiểm tra sau: - Xét tính hợp lí của đáp số - Trong trường hợp bài toán có nhiều cách giảimà tất cả các cách giải đều dẫn tới cùng một đáp số thì đáp số đó là đúng. - Thử lại đáp số dựa vào các mối quan hệ giữa các số đã cho và các số phải tìm bằng cách lập bài toán ngược lại bài toán đã giải, coi đáp số tìm đượclà số đã biết và một trong những số đã cho là chưa biết. Nếu tìm thấy đáp số của bài toán ngược này đúng bằng số đã cho coi là chưa biết ấy thì bài toán đã được giải đúng. Ví dụ:Xét tính hợp lí của bài toán trên là: Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có 8 tấm bưu ảnh.Vậy số bưu ảnh của em ít hơn của anh là: 15 –8 = 7 (tấm) Cả hai anh em có 23 tấm bưu ảnh mà anh có 15 tấm bưu ảnh, vậy em có số tấm bưu ảnh là: 23 –15 = 8 ( tấm) Vậy bài toán giải đúng. 22 Lop4.edu.vn

More Related