1 / 28

Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn bậc THCS

Ngu1eef vu0103n lu00e0 mu1ed9t bu1ed9 mu00f4n thuu1ed9c lu0129nh vu1ef1c khoa hu1ecdc xu00e3 hu1ed9i. u0110u00e2y lu00e0 mu00f4n hu1ecdc cu00f3 vai tru00f2 ru1ea5t quan tru1ecdng trong u0111u1eddi su1ed1ng vu00e0 trong su1ef1 phu00e1t triu1ec3n tu01b0 duy cu1ee7a con ngu01b0u1eddi. Ngu1eef vu0103n cung cu1ea5p cho chu00fang ta nhu1eefng tri thu1ee9c nhu1ea5t u0111u1ecbnh vu1ec1 cuu1ed9c su1ed1ng u0111a chiu1ec1u, u0111a diu1ec7n u0111ang diu1ec5n ra, u0111u1ed3ng thu1eddi, bu1ed3i u0111u1eafp tu01b0 tu01b0u1edfng, tu00ecnh cu1ea3m vu00e0 gu00f3p phu1ea7n hu00ecnh thu00e0nh, hou00e0n thiu1ec7n nhu00e2n cu00e1ch u0111u1ea1o u0111u1ee9c cho mu1ed7i cu00e1 nhu00e2n. Ngu1eef vu0103n trong nhu00e0 tru01b0u1eddng u0111u01b0u1ee3c chia thu00e0nh ba phu00e2n mu00f4n u0111u00f3 lu00e0: Vu0103n bu1ea3n, Tiu1ebfng Viu1ec7t, Tu1eadp lu00e0m vu0103n. Tu1eebng khu00eda cu1ea1nh, nu1ed9i dung cu1ee7a ba phu00e2n mu00f4n nu00e0y u0111u1ec1u cu00f3 u00fd nghu0129a thiu1ebft thu1ef1c, gu1eafn liu1ec1n vu1edbi thu1ef1c tu1ebf u0111u1eddi su1ed1ng.

Download Presentation

Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn bậc THCS

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẠ HÒA TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞLANG SƠN SÁNG KIẾN SỬ DỤNG SƠ ĐỒTƯ DUY TRONG DẠY HỌC NGỮVĂN BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ Họ và tên: Nguyễn Thị Vân Anh Chức vụ: Giáo viên MỤC LỤC Hạ Hòa, năm 2019 https://tailieuhocsinh.com/

  2. MỤC LỤC MỤC NỘI DUNG TRANG CHƯƠNG I: TỔNG QUAN I Cơ sở lý luận 1 II Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến 2 III Mục tiêu 2 CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN I Nêu vấn đề của sáng kiến kinh nghiệm 4 4 1 Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề 4 2 Chỉ ra các tồn tại, hạn chế 5 3 Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế 6 4 Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến II Giải pháp để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm 6 6 1 Tìm hiểu về sơ đồ tư duy 9 2 Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học III Kết quả và khảnăng áp dụng, nhân rộng 18 IV Giải pháp tổ chức thực hiện 20 CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT/KIẾN NGHỊ I Kết luận 21 https://tailieuhocsinh.com/

  3. II Ý kiến đề xuất kiến nghị 21 https://tailieuhocsinh.com/

  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Stt Danh mục chữ viết tắt Ý nghĩa 1 SĐTD Sơ đồtư duy 2 PPDH Phương pháp dạy học 3 THCS Trung học cơ sở https://tailieuhocsinh.com/

  5. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN I. Cơ sở lý luận Ngữ văn là một bộ môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Ngữ văn cung cấp cho chúng ta những tri thức nhất định về cuộc sống đa chiều, đa diện đang diễn ra, đồng thời, bồi đắp tư tưởng, tình cảm và góp phần hình thành, hoàn thiện nhân cách đạo đức cho mỗi cá nhân. Ngữ văn trong nhà trường được chia thành ba phân môn đó là: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn. Từng khía cạnh, nội dung của ba phân môn này đều có ý nghĩa thiết thực, gắn liền với thực tế đời sống. Ngoài ra, Ngữ Văn còn là môn học có mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường. Học tốt môn Ngữ Văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại. Tuy nhiên, trên thực tế, dạy học Ngữ văn còn gặp không ít khó khăn. Một bộ phận học sinh chưa có niềm yêu thích, say mê và hứng thú đối với môn học này. Các em chưa cảm nhận được hết những giá trị nhân văn cũng như sự hữu ích mà môn học mang lại. Mặt khác Ngữ văn cũng là bộ môn đòi hòi năng khiếu và sự cảm nhận tinh tế của cá nhân mỗi học sinh. Cùng với những lí do trên thì trong quá trình dạy học Ngữ văn còn tồn tại nhiều bất cập. Xu hướng đọc – chép vẫn phổ biến nhiều ở các nhà trường, chưa có sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy. Do đó, chất lượng và hiệu quả của bộ môn Ngữ văn đạt được chưa cao, đặc biệt là đối với các trường Trung học cơ sở. Ngày 05/5/2006, Bộtrưởng Bộ Giáo dục và đào tạođã ban hành Quyết định số16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Từđó, việc thực hiện đổi mới được diễn ra liên tục và toàn diện trên tất cả các môn học. Đặc biệt, năm học 2011 - 2012 là năm học Bộ Giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn trong trường phổ thông.Trước tình hình đó, đòi hỏi mỗi giáo viên giảng dạy Ngữ văn cần phải có sự thay đổi tư duy, cách nghĩ và cách làm của mình. Giáo viên cần lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học thông qua các PPDH mới mẻ, linh hoạt và hiệu quả. Nói tới PPDH là nói đến cách dạy của người thầy. Cùng một nội dung, một đơn vị kiến thức nhưng mỗi người giáo viên sẽ có những cách truyền thụ riêng, không giống nhau. Thực tế cho thấy, nếu giáo viên có sự thay đổi, tích cực áp dụng các phương pháp mới vào giảng dạy thì sẽ đem lại kết quả cao hơn so với việc dạy học thụ động, theo lối mòn trước đây. Đối với môn Ngữ văn, đây là môn học có đặc thù riêng. Bởi, ngoài tính công cụ, nó còn có tính nghệ thuật, tính nhân văn rất cao. Do đó, để học sinh học tốt môn NgữVăn ởtrường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. https://tailieuhocsinh.com/

  6. Trong những năm gần đây, một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy (SĐTD). Sơ đồtư duy kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ nhưng ở mức độcao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (người Anh) nghiên cứu kỹlưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có thể khẳng định rằng PPDH bằng SĐTD là một trong những PPDH hiện đại. Nó giúp học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khảnăng tư duy, óc tưởng tượng và khảnăng sáng tạo...Đây là một công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện nay. II. Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến - Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về các phương pháp dạy học tích cực đang được áp dụng trong quá trình dạy học của các nước trên thế giới và ở Việt Nam. Tham khảo các tài liệu khoa học về phương pháp sử dụng SĐTD trong dạy học, từ đó, định hướng cách thức vận dụng SĐTD vào giảng dạy môn Ngữ văn ở bậc Trung học co sở. - Tham khảo, lấy ý kiến từ đồng nghiệp thông qua các hoạt động đàm thoại, trao đổi, tổng kết kinh nghiệm ở các buổi thảo luận chuyên đề, dự giờ thăm lớp, nghiên cứu bài học. - Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát, thăm dò ý kiếnđể tìm hiểu tình hình thực tế giảng dạy môn Ngữ văn hiện nay, nắm bắt được thái độ của học sinh đối với môn học. Sau đó, dựa trên kết quả thu thập, giáo viên so sánh, phân tích nhằm đánh giákết quả nhận thức của người học sau khi đã áp dụng SĐTD vào giảng dạy một tiết học cụ thể. - Tiến hành dạy thực nghiệm, sử dụng sơ đồ, bảng biểu trong quá trình dạy học để quan sát được thái độ, tâm lý, khả năng tiếp cận với phương pháp mới của học sinh. Từ đó, có những điều chỉnh thích hợp, nhằm hoàn thiện hơn nữa phương pháp sử dụng SĐTD vào dạy học môn Ngữ văn. III. Mục tiêu - Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này giúp mỗi giáo viên có thêm cái nhìn thấu đáo hơn về việc đổi mới phương pháp dạy học trong giảng dạy môn Ngữvăn. Sáng kiến đề xuất, làm rõ hơn vềphương pháp sử dụng SĐTD, định hướng cho người dạy cách thức thiết kế, các bước tổ chức và các hoạt động có thể tiến hành SĐTD đểđạt được hiệu quả cao nhất. - Sáng kiến kinh nghiệm này xuất phát từ những trăn trở của tôi trong quá trình dạy môn Ngữvăn ở bậc Trung học cơ sở. Đồng thời, nhằm tổng kết phương pháp, cách thức kĩ năng, kinh nghiệm mà tôi thu được từ thực tiễn giảng dạy của bản thân. Thông qua sáng kiến này, tôi mong muốn góp một phần nhỏ vào đổi mới PPDH đối với môn Ngữvăn nói riêng và quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nói chung. - Với sáng kiến kinh nghiệm tôi tập trung vào vấn đề: “Sử dụng sơ đồtư duy trong dạy học Ngữvăn bậc Trung học cơ sở”,như một giải pháp hữu hiệu https://tailieuhocsinh.com/

  7. đểcác đồng nghiệp cùng tham khảo. Từđó, giúp nhau tháo gỡ phần nào thực trạng dạy học văn hiện nay, không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học, mang đến một tâm thế mới, sự say mê, hứng khởi của học sinh mỗi khi bước vào một tiết học môn Ngữvăn. https://tailieuhocsinh.com/

  8. CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN I. Nêu vấn đề của sáng kiến kinh nghiệm 1. Phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề Trong những năm gần đây, việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, trong đó có đổi mới phương pháp giảng dạy luôn được cả xã hội quan tâm. Làm sao để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục? Làm thếnào để truyền lửa tri thức một cách sinh động, hấp dẫn nhất? Và bằng cách nào đểkhơi dậy hứng thú cũng như niềm say mê học tập cho học sinh? Đây là những câu hỏi thường trực khiến cho người giáo viên vô cùng trăn trở. Để giải quyết vấn đề trên rất nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học đã được đưa ra và ứng dụng tại nhà trường phổ thông với mong muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả cho các môn học, trong đó có bộ môn Ngữvăn. Đây là điểm mới mẻ và thuận lợi rất lớn, góp phần không nhỏđểđưa các phương pháp học tập sáng tạo, tiến bộ tiếp cận gần hơn đến thầy cô và các em học sinh. Trong các phương pháp dạy học Ngữvăn thì sử dụng sơ đồtư duy không hẳn là một phương pháp quá mới mẻvà khó khăn khi thực hiện. Chúng ta có thể bắt gặp dạng đơn giản nhất của sơ đồtư duy thông qua hình thức sơ đồ hóa kiến thức Tiếng Việt ở các bài học trong Sách giáo khoa Ngữvăn thuộc bậc Trung học cơ sở. Phương pháp này giúp cho học sinh có thể hệ thống kiến thức một cách ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, đồng thời, phát huy được khảnăng tưởng tượng phong phú và những năng lực riêng của từng cá nhân. Đặc biệt, giảng dạy bằng sơ đồtư duy phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể thành nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng say hơn trong học tập. Thực tế hiện nay, hầu hết các trường Trung học cơ sởđều có một đội ngũ giáo viên giảng dạy Ngữvăn có kinh nghiệm, tâm huyết với nghề và luôn sẵn sàng học hỏi, trau dồi các phương pháp dạy học mới nhằm nâng cao chất lượng bộmôn. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bịđồ dùng dạy học tương đối đầy đủ phục vụ khá tốt cho quá trình vận dụng các phương pháp học tập vào từng tiết học, đặc biệt là phương pháp sử dụng bản đồtư duy. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, còn tồn tại những khó khăn nhất định khiến cho việc sử dụng sơ đồtư duy trong dạy học Ngữvăn chưa đạt được hiệu quả cao nhất. Những khó khăn này xuất phát cả từphía người dạy, người học và một số yếu tố khác bên ngoài. 2. Chỉ ra các tồn tại, hạn chế a. Về phía học sinh Đa số học sinh còn thờơ đối với bộ môn Ngữvăn. Các em chưa tìm thấy được niềm say mê, hứng thú với môn học. Do đây là môn học yêu cầu đối tượng học cần có những cảm nhận, rung động ở mức độ nhất định đối với những nội dung được truyền tải. Việc học sinh có tâm lý thụđộng, ngại tư duy tưởng tượng ảnh hưởng không nhỏđến khảnăng tiếp thu tri thức của các em. Cho nên, sử https://tailieuhocsinh.com/

  9. dụng sơ đồtư duy vào giảng dạy môn Ngữvăn trong nhà trường là rất cần thiết, để tạo nên hứng thú góp phần khơi dậy tình cảm của học sinh đối với môn học này. b. Về phía giáo viên Mặc dù đội ngũ giáo viên ở Trung học cơ sở hầu hết có kinh nghiệm và năng lực, nhưng khảnăng vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực vào tiết học còn hạn chế, chưa mang lại hiệu quả cao. Một số bộ phận giáo viên còn thụđộng, ngại đổi mới, hoặc còn loay hoay chưa tìm ra cách thức hợp lý để khiến giờ học của mình trởnên sinh động, thu hút được học sinh. Hiện nay, giáo viên ở bậc Trung học cơ sởđã bước đầu tiếp cận và sử dụng sơ đồtư duy vào dạy học Ngữvăn, nhất là đối với các tiết học cần ôn tập và hệ thống hóa kiến thức như ở phân môn Tiếng Việt. Tuy nhiên, việc sử dụng này còn thiếu linh hoạt, chưa đồng đều, phổ biến, chưa phát huy được hết khảnăng tư duy, sáng tạo của học sinh. Ngoài ra, hầu hết giáo viên mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng sơ đồtư duy để hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài học, hay mỗi bài ôn tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến thức nào đó mà thôi. Họchưa mạnh dạn đưa sơ đồtư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học làm hạn chếđi tính chất phổ biến và đa năng của phương pháp này. Vì vậy, chưa phát huy một cách đầy đủ công dụng của sơ đồtư duy trong quá trình dạy học môn Ngữvăn. 3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế - Học sinh chưa yêu thích môn Ngữvăn nói chung, còn thụđộng trong tiếp nhận, khảnăng cảm thụ còn hạn chế. - Do đặc thù của bộ môn Ngữvăn là môn học có những yêu cầu nhất định vềnăng lực thẩm mĩ. Yếu tố vềnăng khiếu chi phối một phần không nhỏđến quá trình học tập và kết quảđạt được của học sinh. - Phần lớn phụ huynh học sinh chưa có sựquan tâm chưa thoảđáng đối với môn Ngữvăn nên định hướng cho học sinh theo học các môn khoa học tự nhiên. Do vậy phần nào ảnh hưởng đến tâm lí học của học sinh. - Nhà trường và tổ chuyên môn: mặc dù có tổ chức thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, tuy nhiên hình thức chưa đa dạng, hiệu quả còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và áp dụng phương pháp mới. - Giáo viên: còn quen với các phương pháp cũ, chưa thực sự chủđộng trong việc đổi mới phương pháp. Khi sử dụng phương pháp mới vào giờ học còn lúng túng, chưa thực hiện đúng các bước tiến hành nên hiệu quảđạt được chưa cao. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho bộ môn còn thiếu xót. Thời gian mỗi tiết học chỉcó 45 phút trong đó giáo viên vừa truyền tải kiến thức vừa phải hướng dẫn học sinh trong các hoạt động học. - Hơn thế nữa, sĩ số mỗi lớp học tương đối đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết học. 4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết cần tạo ra sáng kiến https://tailieuhocsinh.com/

  10. Từ thực trạng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữvăn ở bậc Trung học cơ sở nói chung, và tại trường THCS Lang Sơn nói riêng, tôi thấy rằng để nâng cao chất lượng bộ môn, đạt được năng lực cho học sinh (năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng ngôn ngữ) và hình thành ở các em niềm say mê, yêu thích môn học là một vấn đề quan trọng và cần thiết. Ngữvăn là môn học mang tính nhân văn rất cao và có ý nghĩa quan trọng đối với việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Vì vậy, cần phải có sựthay đổi trong phương pháp để các em hiểu và thấy được những giá trị của môn học, nhằm đưa Ngữvăn trở về với đúng vị trị của nó trong nhà trường, tránh tư tưởng ngại học, ngại tư duy tưởng tượng của học sinh. Đồng thời, giúp cho các bậc phụ huynh có những định hướng đúng đắn hơn, từ đó, động viên khích lệ con em mình trong việc học tập môn học này. Ngoài ra, trong xu thếđổi mới căn bản và toàn diện giáo dục hiện nay, để bắt kịp với những bước tiến của giáo dục trên thế giới, thì việc áp dụng các phương pháp mới trong giảng dạy là hoàn toàn cần thiết. Nó sẽ góp phần đưa việc dạy và học Ngữvăn thoát khỏi lối mòn đang tồn tại, khơi dậy được hứng thú của người học. Chính vì vậy, tôi thấy cần phải có sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng sơ đồ duy trong dạy học Ngữvăn bậc Trung học cơ sở” để giải quyết được thực trạng trên, khắc phục những hạn chế vốn có và phát huy một cách mạnh mẽ vai trò của môn Ngữvăn trong nhà trường. II. Giải pháp để thực hiện sáng kiến Để sử dụng sơ đồ tư duy một cách hiệu quả, khắc phục được những khó khăn đang tồn tại, trước hết, chúng ta phải có những tri thức nhất định về nó. Vậy sơ đồ tư duy hiểu một cách đầy đủ là gì? Nó được cấu tạo, xây dựng, thiết kế như thế nào? Quy trình tổ chức và các tiện ích mà sơ đồ tư duy mang lại ra sao? Bằng cách trả lời những câu hỏi này, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện và khai thác được tối đa những công dụng đa năng mà sơ đồ này mang lại. 1. Tìm hiểu về sơ đồ tư duy 1.1. Khái niệm Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... 1.2. Cấu tạo - Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề. https://tailieuhocsinh.com/

  11. -Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề. - Phát triển các nhánh cấp 1 làcác nhánh cấp 2 mang các ý phụ. - Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy 1.3. Các bước thiết kế một SĐTD Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây: Bước 1:Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được) Bước 2:Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặttiêu đề các nhánhchính, nối chúng với trung tâm. Bước 3:Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. Bước 4:Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ. *Lưu ý: - Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con. - Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn. - Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn. https://tailieuhocsinh.com/

  12. - Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ. - Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn. - Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề. - Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp. - Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu... - Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài. - Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình. 1.4. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp Hoạt động 1:Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. Hoạt động 2:Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3:Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Hoạt động 4:Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. 1.5. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn - Dạy học bằng SĐTD giúp học sinhcó được phương pháp học hiệu quả. Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinhkhi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình.Bởi vậy, rèn kuyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ gúphọc sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. https://tailieuhocsinh.com/

  13. - SĐTD giúp học sinhhọc tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy sử dụng SĐTD giúphọc sinhhọc tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm kiến thức hội họa” do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. - Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh).Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút. - Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ tư duy (Mind Map). Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS: 1. Tăng sự hứng thú trong học tập. 2. Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em. 3. Tiết kiệm thời gian rất nhiều. 4. Nhìn thấy được bức tranh tổng thể. 5. Ghi nhớ tốt hơn. 6. Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em. 2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học 2.1. Làm quen với SĐTD * Đối với giáo viên: Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Mapđể có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính. Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng. https://tailieuhocsinh.com/

  14. * Đối với học sinh: Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, để các em có cái nhìn khái quát về nó. Đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các em chưa hình dung được SĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ. Vì vậy, theo tôi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen” với SĐTD, theo cách sau đây: - Để tiết kiệm thời gian, giáo viên nên tham mưu cho Ban Giám hiệu trường, hoặc Chuyên môn trường, chọn thời gian thuận lợi ngay từ đầu năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư duy” để giới thiệu, cho các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em. Đây cũng là một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Để buổi ngoại khóa thành công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau: + Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,... + Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ, phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa lịch, trên bảng phụ... Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo các bước sau: Bước 1:“Làm quen” -Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên chọn vẽ SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp thu tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu cấu trúc SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD). Bước 2:“Đọc hiểu” - Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình) Bước 3:“Tập vẽ” -Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình (hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Chiến tranh hạt nhân, https://tailieuhocsinh.com/

  15. Từ (Xét về cấu tạo)... Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ. -Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD) * Lưu ý: + Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ, dễ vẽ. + Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ. + Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những cụm từ ngắn gọn. Bước 4:“Trang trí” -Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ đồ. (Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng) Bước 5:“Chia sẻ kinh nghiệm” -Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại - Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung. -Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung: + Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. + Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có thể hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng... + Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập SĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. + Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc ôn tập, hệ thống kiến thức. 2.2. Các hình thức sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học 2.2.1 Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ đối với rất nhiều giáo viên. Hầu hết giáo viên rất băn khoăn khi nghe đề nghị dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra15 phút hay kiểm tra một tiết. Kinh nghiệm khi sử dụng SĐTD vào kiểm tra đánh giá như sau: * Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ https://tailieuhocsinh.com/

  16. Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD thông qua câu hỏi gợi ý. Ví dụ:Sau khi học xong bài: “Các phương châm hội thoại” (Tiết 1,2), có thể củng cố, hệ thống kiến thức đã học trước thông qua câu hỏi sau: Ta đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy lập SĐTD để hệ thống kiến thức về chúng? Sau đó, giáo viên ghi cụm từ khóa lên giữa bảng phụ “Phương châm hội thoại”, rồi gọi một em xung phong lên bảng vẽ. Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được SĐTD theo nội dung yêu cầu. SĐTD về các phương châm hội thoại có tính chất minh họa: * Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15 phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư duy hệ thống cho học sinh: Ví dụ 1: Từ tiếng Việt (xét về mặt cấu tạo) gồm có những loại nào? Em hãy vẽ SĐTD giới thiệu chi tiết về chúng. https://tailieuhocsinh.com/

  17. Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc của nhà thơ Viễn Phương theo trình tự không gian và thời gian của chuyến ra thăm lăng Bác Hồ. Với cụm từ khóa “Viếng lăng Bác”,em hãy lập SĐTD ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc ấy của tác giả qua mỗi khổ thơ. https://tailieuhocsinh.com/

  18. * Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng Việc kết hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD. Sau đây là một số ví dụ minh họa: Ví dụ 1:Khi dạy bài giới thiệu về “Truyện Kiều cuả Nguyễn Du”(Tiết 26,27), sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “TRUYỆN KIỀU (Nguyễn Du)” lên trung tâm bảng đen. Sau đó, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài học. Đầu tiên, ta cho các em tìm hiểu về tác giả bằng cách vẽ nhánh chính thứ nhất đặt tiêu đề nhánh “I. TÁC GIẢ”. Rồi đưa ra các câu hỏi gợi ý tìm hiểu về Tên hiệu, Xuất thân, Thời đại, Cuộc đời, Sự nghiệp văn học của nhà thơ. Tìm hiểu đến đâu, giáo viên phát triển nhánh, cô đọng kiến thức đến đó. Sau khi dẫn dắt các em tìm hiểu xong phần tác giả, giáo viên tiếp tục vẽ nhánh thứ hai, đặt tiêu đề “II. TÁC PHẨM” đưa ra các câu hỏi gợi ý các em tìm hiểu tác phẩm: Nguồn gốc, Thể loại, Kết cấu, Giá trị (nội dung, nghệ thuật) của tác phẩm (cách làm tương tự như trên). Kết thúc 2 tiết học, ta có SĐTD giới thiệu một cách cô đọng, khái quát, lô-gic những tri thức cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” trên bảng đen như sau: https://tailieuhocsinh.com/

  19. Ví dụ 2: Đối với phân môn Tiếng Việt thì sử dụng SĐTD kết hợp việc dạy học bài mới với việc ghi bảng càng dễ dàng hơn. Ví dụ khi dạy bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ I (Tiết 73). Sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cum từ trung tâm “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT” lên giữa bảng đen. Sau đó, dẫn dắt học sinh lần lượt đi vào tìm hiểu các nội dung ôn tập theo trình tự SGK. Bắt đầu với việc hệ thống, củng cố kiến thức lý thuyết thông qua các câu hỏi: -Chúng ta đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy nhắc lại nội dung mỗi phương châm? (vẽ nhánh, ghi chú) - Tiếng Việt có những loại từ ngữ nào thường dùng để xưng hô? Cho ví dụ mỗi loại? (vẽ nhánh, ghi chú) - Ta kết hợp cho học sinh làm các bài tập trong mỗi nội dung ôn tập sau khi lập SĐTD cho mỗi nhánh (nội dung). Cuối tiết Ôn tập, ta có SĐTD trên bảng. * Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗibài học, mỗi phần của bài học Ví dụ 1:Khi dạy tác phẩm truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểuxongphần một “Vũ Nương và câu chuyện oan khuất của nàng” giáo viên cho các em lậpSĐTD về nhân vật Vũ Nươngthông qua câu hỏi sau: https://tailieuhocsinh.com/

  20. Như vậy,qua phần tìm hiểu trên, em hãy lập SĐTD để chứng minh Vũ Nương là một người mẹ đảm đang, một người vợ thủy chung, một người dâu hiền hiếu thảo?Sau đây là hình ảnh minh họa: Ví dụ 2: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu xong luận cứ 3: “Những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam trong bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của Vũ Khoan, giáo viên cho học sinh lập SĐTD về đặc điểm củacon người Việt Nam.Sau đây là SĐTD minh họa: https://tailieuhocsinh.com/

  21. * Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để ôn tập và hệ thống kiến thức đã học cho các em. Sau đây là một vài ví dụ: Ví dụ 1:Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Tiếng Việt” (tiết 139, 140) học kì II như sau: Ví dụ 2: Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Truyện”(Tiết 154,155) như sau: https://tailieuhocsinh.com/

  22. Tóm lại, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh.Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào SĐTD, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học. Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS. III. Kết quả và khảnăng áp dụng, nhân rộng Sau một thời gian ứng dụng SĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văntai trường THCS Lang Sơn, tôi nhận thấy bước đầu có những kết quả rất khả quan. Trước hết, bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học. Tôi đã tìm hiểu, biết cách sử dụng SĐTĐ một cách hiệu quả trong hầu hết các khâu của quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, ôn tập, khái quát, hệ thốngkiến thức các chương, phần... Với phương pháp này, tôi đã khắc phục được những khó khăn và hạn chế nhất định khi tổ chức hoạt động học cho học sinh, giúp cho việc giảng dạy trở nên linh hoạt và đạt được mục tiêu bài học mà bản thân đề ra ở mỗi tiết học. Nhờ phương pháp sử dụng SĐTD, không chỉ riêng tôi mà cả đồng nghiệp của mình cũng thấy được lợi ích to lớn của việc đổi mới phương pháp trong dạy học. Từ đó, có cái nhìn đúng đắn hơn, tâm lý chủ động, thoải mái hơn khi tiếp cận và vận dụng các phương pháp khác nhau vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng bộ môn. Về phía học sinh: Tôi nhận thấy khả năng tiếp thu bài, nắm kiến thức của các em ngày càng nhanh hơn, khoa học và chắc chắn hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng SĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Những học sinhtrung bình đã biết dùng SĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Điều quan trọng hơn là các em họcđã phát huy được tính chủ động, tích cực của mình. Các em không còn tâm lý chán học, ngại học môn https://tailieuhocsinh.com/

  23. Ngữ văn vì phải ghi chép nhiều. Trái lại, tất cả rất hứng thú với việc học tập. Vì việc ứng dụng SĐTD không chỉ tạo tác động trực quan lôi cuốn các em, mà còn giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn, nhanh hơn và nhẹ nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép trước đây. Ở một số tiết học có vận dụng phương pháp sử dụng SĐTD, sau khi hoàn thành xong sơ đồ hệ thống hóa kiến thức của mình, các em còn hào hứng chia sẻ, trao đổi với nhau. Từ đó, tạo nên một phong trào thi đua trong tập thể lớp học. Tất cả các em không chỉ tiến hành vẽ SĐTD trong các tiết học được giáo viên yêu cầu mà còn tự tìm tòi, sáng tạo các hình thức sơ đồ khác nhau, tổ chức vẽ SĐTD hệ thống lại kiến thức ngoài các giờ học trên lớp. Tôi thấy rằng đây là một tín hiệu đáng mừng trong việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn. Phương pháp sử dụng SĐTD đã góp phần phát huy được các năng lực vốn có của học sinh, khơi dậy được sự chủ động, tích cực của các em đối với việc học tập bộ môn Ngữ văn. Để thấy được hiệu quả của sáng kiến này, tôi đã tiến hành các cuộc điều tra khảo sát bằng hình thức trắc nghiệm đối với các học sinh khối lớp 7 (60 học sinh) năm học 2017-2018. Kết quảthu được như sau: Trả lời Nội dung câu hỏi Có Không Em có yêu thích bộ môn Ngữvăn không? 50 = 83,3% 10 = 16,7% Với phương pháp sử dụng SĐTD, em có thấy hứng thú không? 52 = 86,7% 8 = 13,3% Phương pháp này có ích cho việc học tập của em không? 52 = 86,7% 8 = 13,3% Em có thường xuyên sử dụng phương pháp này trong học tập không? 49 = 81,7% 11 = 18,3% Cụ thểđiều tra trên 49 học sinh khối lớp 9, năm học 2018 - 2019, sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, kết quảnhư sau: Trả lời Nội dung câu hỏi Có Không Em có yêu thích bộ môn Ngữvăn không? 46 = 93,9% 3 = 6,1% Với phương pháp sử dụng SĐTD, em có thấy hứng thú không? 47 = 95,9% 2 = 4,1% https://tailieuhocsinh.com/

  24. Phương pháp này có ích cho việc học tập của em không? 48 = 97,9% 1 = 2,1% Em có thường xuyên sử dụng phương pháp này trong học tập không? 45 = 91,8% 4 = 8,2% Sau hai năm áp dụng sáng kiến tại Trường THCS Lang Sơn thì đã có sự thay đổi rõ rệt trong nhận thức của học sinh. Các em ngày càng hứng thú, yêu thích bộ môn Ngữvăn. Các em thấy được ích lợi của việc sử dụng SĐTD,đồng thời, có ý thức sử dụng thường xuyên và liêc tục hơn phương pháp này trong quá trình học tập của mình. Điều đó chứng tỏ hiệu quả mà sáng kiến mang lại. Sáng kiến kinh nghiệm đã được thử nghiệm ởtrường THCS Lang Sơn và được tổ chuyên môn triển khai thực hiện khi giảng dạy bộ môn Ngữvăn. IV. Giải pháp tổ chức thực hiện Để thực hiện được sáng kiến tại trường THCS Lang Sơn cần: Đối với nhóm chuyên môn Ngữvăn thực hiện trao đổi, thảo luận và dự giờ thực tế từđó có nhận xét, đánh giá ưu và nhược điểm sáng kiến kinh nghiệm đem lại. Từđó có sựđiều chỉnh cho phù hợp với thực tế mỗi tiết học vềphương pháp giảng dạy, kĩ thuật dạy học. Từ những tiết học thực tếđể nắm bắt được những thuận lợi và những khó khăn của học sinh trong quá trình tiếp cận và thực hiện phương pháp học tập mới. Và có phương án phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh để việc sử dụng SĐTD được các em sử dụng thường xuyên và liên tục hàng ngày. Đối với tổ chuyên môn: Trong quá trình thực hiện tổ chuyên môn có thểđề xuất với nhà trường đưa vấn đề ra thảo luận trong buổi sinh hoạt chuyên môn cụm, liên trường để thu thập ý kiến đánh giá, bổ sung thêm cho sáng kiến kinh nghiệm hoàn thiện và sát với thực tếhơn. Đối với nhà trường: tạo điều kiện để triển khai, tổ chức và áp dụng phương pháp sử dụng SĐTD vào giảng dạy. Động viên, khích lệ giáo viên nhân rộng phương pháp này vào các khâu khác nhau của hoạt động dạy và học. Nhà trường cần tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị, dụng cụ dạy học để phục vụ cho quá trình học tập; phân chia sĩ số học sinh một cách hợp lý để dễ dàng, thuận lợi cho giáo viên trong việc theo sát, hướng dẫn các em khi thực hiện các bước thiết kế một SĐTD. https://tailieuhocsinh.com/

  25. CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT/KIẾN NGHỊ I. Kết luận Tóm lại, việc vận dụng SĐTD trong dạy học, kiểm tra, đánh giá sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với học sinh ở cấp THCS hiện nay. Vì vậy, việc tăng cường sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học nói chung, trong đó có dạy học Ngữvăn là việc làm rất cần thiết, góp phần đáp ứng yêu cầu của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sáng kiến này mới chỉ áp dụng ởtrường THCS Lang Sơn, nhưng đã đem lại thành công nhất định. Sáng kiến như một định hướng đểngười giáo viên có cái nhìn đúng đắn, thiết thực hơn về việc đổi mới phương pháp trong dạy học môn Ngữvăn. Bước đầu giúp cho giáo viên hiểu được một cách chính xác, khoa học vềphương pháp sử dụng SĐTD. Từđó, áp dụng linh hoạt, sáng tạo vào hoạt động giảng dạy trên lớp, góp phần khơi dậy sự hứng thú, yêu thích của học sinh đối với môn học. Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi vào bộ môn Ngữvăn tại tất cả các trường Trung học cơ sở trên cảnước. II. Ý kiến đề xuất kiến nghị Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng ởtrường THCS Lang Sơn 3 năm và đạt được một số thành công nhất định. Tuy nhiên để sáng kiến được phổ biến rộng rãi và thực sự có hiệu quả trong việc giảng dạy môn Ngữvăn, tôi xin đề xuất/kiến nghị một số vấn đề sau: 1. Đề xuất: 1.1 Đối với giáo viên: -Cần phải nắm vững những hiểu biết, kiến thức cơ bản vềsơ đồtư duy: khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽSĐTD trên lớp và những tiện ích. - Cần có sự cân nhắc khi ứng dụng SĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra đánh giá, tổ chức hoạt động cho học sinh, tránh lạm dụng; nhất là đối với bộ môn Ngữvăn. - Cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để thiết kếSĐTD tức là phải biết chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức thật cần thiết. -Cần đầu tư thời gian hợp lí vào việc soạn bài, lập trước các SĐTD cần thiết cho tất cả các khâu của quá trình lên lớp đối với từng bài học. 1.2 Đối với học sinh: - Cần tích cực, tựgiác, cũng như tăng cường giao lưu học hỏi một cách khiêm tốn ở thầy cô, bạn bè về việc vẽ, học và ghi chép với SĐTD. https://tailieuhocsinh.com/

  26. 2. Kiến nghị: Đối với nhà trường để giáo viên có thể nắm vững và thực hiện tốt hơn việc sử dụng SĐTD vào giảng dạy môn Ngữvăn, nhà trường cần tổ chức các buổi tập huấn, trao đổi thường xuyên, lên kế hoạch dạy thực nghiệm, tiến hành rút kinh nghiệm sau mỗi giờ học có sử dụng phương pháp này để tìm ra những hạn chế, khó khăn. Từđó, bổ sung thêm các giải pháp mới mẻ góp phần hoàn thiện phương pháp khi vận dụng vào giảng dạy. Nhà trường nên phối hợp với Đoàn đội tổ chức các cuộc thi vẽ, sáng tạo SĐTD giữa các học sinh trong cùng khối lớp, hoặc giữa các khối lớp với nhau để tạo nên một phong trào thi đua mới trong học tập nhằm khích lệ tính tích cực, chủđộng và tình yêu của các em đối với bộ môn Ngữvăn. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Vân Anh https://tailieuhocsinh.com/

  27. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy –một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học sinh học tập môn toán, Tạp chí Giáo dục, kì 2- tháng 9/2009. 2.Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần TCH HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên đề TBDH năm 2009. 3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc–NXB Lao động –Xã hội. 4. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy; Bản đồ tư duy-công cụ hiệu quả hỗ trợ dạy học và công tác quản lý nhà trường, Báo Giáo dục&Thời đại, số 147 ngày 14/9/2010. 5. Một số chuyên đề bồi dưỡng Cán bộ quản lý và giáo viên THCS–Bộ Giáo dục và Đào tạo. https://tailieuhocsinh.com/

  28. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ, NGHIỆM THU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TRƯỜNG THCS LANG SƠN ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG https://tailieuhocsinh.com/

More Related