0 likes | 9 Views
Hu1ecdc sinh yu1ebfu ku00e9m vu1ec1 tou00e1n lu00e0 nhu1eefng hu1ecdc sinh cu00f3 ku1ebft quu1ea3 vu1ec1 mu00f4n tou00e1n thu01b0u1eddng xuyu00ean du01b0u1edbi mu1ee9c trung bu00ecnh. Do u0111u00f3 viu1ec7c lu0129nh hu1ed9i tri thu1ee9c, ru00e8n luyu1ec7n ku1ef9 nu0103ng cu1ea7n thiu1ebft u0111u1ed1i vu1edbi nhu1eefng hu1ecdc sinh nu00e0y tu1ea5t yu1ebfu u0111u00f2i hu1ecfi tu1ed1n nhiu1ec1u cu00f4ng su1ee9c vu00e0 thu1eddi gian hu01a1n so vu1edbi nhu1eefng hu1ecdc sinh khu00e1c.<br>u0110u1ecbnh hu01b0u1edbng u0111u1ed5i mu1edbi phu01b0u01a1ng phu00e1p du1ea1y hu1ecdc hiu1ec7n nay u0111u00e3 xu00e1c u0111u1ecbnh u201cphu01b0u01a1ng phu00e1p du1ea1y hu1ecdc Tou00e1n trong nhu00e0 tru01b0u1eddng cu00e1c cu1ea5p phu1ea3i phu00e1t huy tu00ednh tu00edch cu1ef1c, tu1ef1 giu00e1c chu1ee7 u0111u1ed9ng cu1ee7a ngu01b0u1eddi hu1ecdc, hu00ecnh thu00e0nh vu00e0 phu00e1t triu1ec3n nu0103ng lu1ef1c tu1ef1 hu1ecdc, trau du1ed3i cu00e1c phu1ea9m chu1ea5t linh hou1ea1t , u0111u1ed9c lu1eadp su00e1ng tao cu1ee7a tu01b0 duyu201d.
E N D
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Stt Chữ viết tắt Tên đầy đủ 1 GV Giáo viên 2 HS Học sinh 3 PPDH Phương pháp dạy học 4 SGK Sách giáo khoa 5 THCS Trung học cơ sở 1 https://tailieuhocsinh.com/
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN thường xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác. Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả về môn toán pháp dạy học Toán trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt , độc lập sáng tao của tư duy”.Bắt nguồn từ định hướng đó giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt cao nhất. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định “phương đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán của học sinh. Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá). Người thầy phải nắm vững các đặc điểm của học sinh yếu kém để từ đó Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Toán và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Lang Sơn –Hạ Hòa –Phú Thọ tôi thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức cơ bản, ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu vì thế hầu hết các em sợ học môn toán nói chung và phân môn Hình học nói riêng. Chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã có những ý kiến như: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn…Điều đó nãy sinh trong tôi những trăn trở: Là làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Có biện pháp gì để tạo hứng thú say mê tìm tòi sáng tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn?…Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm "Một vài kinh nghiệm hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán”. 2 https://tailieuhocsinh.com/
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN Cốt lõi của việc đổi mới PPDH ở trường THCS là giúp HS hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Vì lẽ đó khi giảng dạy GV cần dựa vào 05 tiêu chuẩn chính lựa chọn PPDH: + Chọn những PPDH có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện mục tiêu dạy học. + Lựa chọn các PPDH tương thích với nội dung. + Lựa chọn các PPDH dựa vào hứng thú, thói quen, kinh nghiệm của HS. + Lựa chọn các PPDH phù hợp với năng lực, điều kiện, thế mạnh... của GV. + Lựa chọn các PPDH phù hợp với điều kiện dạy học. Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : - Quan sát trực tiếp các đối tượng học sinh để phát hiện ra những vấn đề mà học sinh thấy lúng túng, khó khăn khi giáo viên yêu cầu giải quyết vấn đề đó. - Điều tra toàn diện các đối tượng học sinh khối 8 của trường tôi dạy để thống kê học lực của học sinh. Tìm hiểu tâm lý của các em khi học môn toán. - Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của HS để phát hiện trình độ nhận thức, phương pháp và cách trình bày bài toán đặc biệt đi sâu vào những sai sót của các em khi làm bài để có biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục. - Thực nghiệm giáo dục trong khi giải bài mới, trong các tiết luyện tập, tiết ôn tập, tôi đã đưa vấn đề này ra hướng dẫn học sinh cùng trao đổi, thảo luận bằng nhiều hình thức khác nhau như hoạt động nhóm, giảng giải, vấn đáp gợi mở để học sinh khắc sâu kiến thức, tránh được những sai lầm trong khi giải bài tập. Yêu cầu học sinh giải một số bài tập theo nội dung trong sách giáo khoa rồi đưa thêm vào đó những yếu tố mới, những điều kiện khác để xem xét mức độ nhận thức và suy luận của học sinh. - Phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục khi áp dụng nội dung đang nghiên cứu vào thực tiễn giảng dạy nhằm tìm ra nguyên nhân những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi giải toán. Từ đó tổ chức có hiệu quả hơn trong các giờ dạy tiếp theo. Toán học có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và các nghành khoa học khác. Hơn nữađặc điểm về môn toán nội dung nhiều, công thức tính nhiều, 3 https://tailieuhocsinh.com/
bài tập thì đa dạng (có khó, có dễ, có phức tạp). Vì thế trong quá trình tính toán, vận dụng HS rất dễ bị nhầm lẫn, sai sót. Qua một sốnăm giảng dạy bộ môn toán và tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm, tôi nhận thấy: Trong quá trình hướng dẫn học sinh giải toán thì sự vận dụng lí thuyết vào việc giải các bài tập cụ thể của học sinh chưa linh hoạt. Khi gặp một bài toán đòi hỏi phải vận dụng và có sự tư duy thì học sinh không xác định được phương hướng để giải bài toán dẫn đến lời giải sai hoặc không làm được bài. Một vấn đề cần chú ý nữa là kỹ năng giải toán và tính toán cơ bản của một số học sinh còn rất yếu. III. MỤC TIÊU Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương trình qui định, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay. Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói riêng đạt kết quả cao không phải là chuyện nói đến đâu làm ngay được đến đó. Muốn đạt hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của thầy phải vững, phải sâu, phải có phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy có kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm khéo léo. Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “ tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế giới tâm lí, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS. 4 https://tailieuhocsinh.com/
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN 1. Phân tích, đánh giá thực trạng của vấn đề: Thực trạng hiện nay cho thấy vấn đề học sinh yếu kém ở các bộ môn rất trầm trọng. Trong đó môn toán không phải là ngoại lệ. Với vai trò quan trọng của bộ môn có tính quyết định đến chất lượng học tập các bộ môn khác. Hơn nữa chương trình toán THCS là những viên gạch đặt nền móng đầu tiên cho cả quá trình học tập sau này. Bản thân tôi là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy môn Toán 8 tôi thấy rằng: cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Nhất là phân môn Hình học có nhiều khái niệm trừu tượng nhất, bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình vẽ lại phải “ mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh, điểm, đường thẳng hay suy luận.... Kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với nội dung lí thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ, lôgic. - Trong trường THCS môn Toán là môn khoa học luôn được chú trọng chẳng hạn như: khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các bước giải rất cụ thể ; thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trừu tượng, các hướng đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức lí thuýêt với lượng bài tập và thời gian luyện tập lại quá lớn. Do đó rất khó khăn trong việc chữa bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu. - Nếu phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng, - Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ miễn cưỡng, chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập ở nhà cũng chỉ đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình... Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng. Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn Hình học của lớp 8A1đầu năm cho thấy kết quả: 5 https://tailieuhocsinh.com/
Số HS có hứng thú Số HS không có hứng thú Số HS SL % SL % 30 2 6,7% 28 93,3% nhìn vào củng cảm thấy lo ngại ,cụ thể: Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm phân môn Hình học khiến bất cứ ai Khá giỏi Trung bình Yếu kém Số HS SL % SL % SL % 30 2 6.7% 6 20% 22 73.3% Kết quả khảo sát đầu năm môn toán Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 30 2 6,7 2 6,7 17 56,6 6 20 3 10 2. Các tồn tại, hạn chế: Trong thực tế giảng dạy môn toán lớp 8, bản thân tôi đã phát hiện những sai sót mà học sinh lớp 8 thường xuyên mắc phải khi trình bày bài toán số học, đó là: + Thiếu tính cẩn thận dẫn đến suy luận sai, sử dụng sai ký hiệu sai. + Trình bày bài toán không có cơ sở, thiếu lập luận hoặc lập luận không chính xác. + Trình bày bài làm một cách tuỳ tiện: Nhầm lẫn giữa các bước hoặc không biết cách trình bày, hoặc trình bày bài toán rập khuôn thiếu sự tư duy, linh hoạt từ một bài toán mẫu. - Kết quả bài kiểm tra một tiết chương I môn Số học năm học 2016 - 2017 như sau: Nội dung Tỷ lệ % + Thiếu tính cẩn thận dẫn đến suy luận sai, sử dụng sai ký hiệu sai. 30% 40% + Trình bày bài toán không có cơ sở, thiếu lập luận hoặc lập luận không chính xác. 6 https://tailieuhocsinh.com/
+ Trình bày bài một cách tuỳ tiện: Nhầm lẫn giữa các bước hoặc không biết cách trình bày, hoặc trình bày bài toán rập khuôn thiếu sự tư duy, linh hoạt từ một bài toán mẫu. 50% 3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế: Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là: Học sinh có nhiều "lỗ hổng"về kiến thức cũng như kỹ năng do: * Nguyên nhân khách quan: - Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật chất cũng như thời gian, dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế. - Do học sinh có sự khủng hoảng nhất thời về mặt tinh thần trong cuộc sống dẫn đến sao nhãng việc học hành. * Nguyên nhân chủ quan: - Kiến thức bị hổng do học sinh lười học. Do khả năng tiếp thu chậm. Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. + Chưa học lý thuyết đã làm bài tập. + Chưa hiểu kiến thức một cách có hệ thống. + Một số học sinh yếu chưa có cố gắng trong học tập, thiếu tập trung trong tiết học thậm chí lười ghi cả bài giải mẫu của giáo viên. + Học sinh chưa chú trọng việc học bài cũ, làm bài tập ở nhà. - Trong quá trình giải bài tập: + Học sinh thiếu tính cẩn thận khi trình bày, tính toán. + Không hiểu được đề bài cho cái gì, yêu cầu cái gì? Mà nguyên nhân là do không đọc kỹ đề nên lập luận sai dẫn đến giải bài toán sai. - Thiếu sự quan tâm của gia đình trong việc học ở nhà do đó các em chỉ làm bài tập “qua loa, lấy lệ” rồi đi chơi. Qua quá trình giảng dạy và các lần kiểm tra: Miệng, 15 phút, một tiết, vở ghi, bài tập về nhà, bài tập làm trên lớp chương I phân môn Hình học 8tôi nhận thấy HS mắc các sai sót do các nguyên nhân trên theo tỷ lệ như sau: 7 https://tailieuhocsinh.com/
Nội dung Tỷ lệ % 50% + Học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn với bộ môn. 40% + Trong quá trình giải bài tập: Thiếu tính cẩn thận khi trình bày, tính toán, thiếu lập luận hoặc lập luận không chính xác. + Thiếu sự quan tâm của gia đình trong việc học ở nhà. 30% 4. Phân tích, đánh giá và chỉ ra tính cấp thiết của sáng kiến: Với thực trạng trên việc nhiều học sinhhiện nay còn học yếu kém môn toán. Tính tích cực, tự giác, chủ động và kĩ năng học tập cũng như làm bài tập môn toán nói chung cũng như ở phân môn Hình học 8nói riêng còn nhiều hạn chế. Vì vậy tôi đã đặt ra cho mình mục tiêu giáo dục nhằm hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản về phương pháp học tập, hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán. Với những sai sót và nguyên nhân dẫn đến sai sót trong khi giải toán số học nói chung, dạng toán liên quan đến bội và ước nói riêng, vận dụng những kinh nghiệm của bản thân và đồng nghiệp trong giảng dạy tôi đã tìm ra những biện pháp giúp học sinh trình bày tốt các dạng toán liên quan đến bội và ước. Sau đây là những biện pháp khắc phục triệt để những sai sót đó qua từng bài tập cơ bản cụ thể. II. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN Trên cơ sở đó, tôi nghĩ giáo viên cần phải xây dựng được cho học sinh một sự hứng thú, kích thích tính tò mò, hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán. Bằng kinh nghiệm hiểu biết và tìm hiểu qua nhiều thông tin tôi có một số giải pháp như sau: 1. Khắc phục các yếu tố chủquan: Ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tinh thần trách nhiệm của một người thầy trên cương vị giáo viên chủ nhiệm. *Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn đến lớp các em phải đi mò cua, bắt ốc để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi đã có ý Ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi 8 https://tailieuhocsinh.com/
kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được, giảm bớt gánh nặng về sự thiếu thốn vật chất cho các em. Ngoài ra tôi đã phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp bạn có thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo khoa,bút vở…Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các em đó trong học tập. * Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần. cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của bố mẹ...Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em , động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn. Ví dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp có những * Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học.Tôi trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công tác kiểm tra việc học và làm bài về nhà, trong các giờ học tôi khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn. tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt. Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Đây là một nỗi đau hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi, thôi thúc tôi phải làm một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém học tốt môn toán hơn qua các biện pháp cụ thể sau: 2. Khắc phục các yếu tố khách quan: 2.1. Tạo sự hấp dẫn cho học sinh khi tìm hiểu về kiến thức mới. Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi Với học sinh THCS ở lứa tuổi các em rất hiếu động, thích tò mò, khám phá và muốn được mọi người công nhận năng lực của mình, không thích bị áp đặt, phê bình. Điều này cho thấy khi truyền thụ kiến thức cho học sinh giáo viên phải lựa chọn những phương pháp phù hợp, nhẹ nhàng, kích thích được tính tò 9 https://tailieuhocsinh.com/
của các em để xuất hiện nhu cầu khám phá, từ đó các em có tâm lý để chinh phục kiến thức. Như vậy, phải làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học? Rõ ràng để làm được điều này, giáo viên phải đầu tư thật kỹ cho tiết dạy của mình. Riêng tôi, khi dạy tiết hình, thường chọn cho mình một phương pháp tạo tình huống từ những vấn đề thực tiễn như: Đưa ra một hình huống trong thực tế hoặc kể một câu chuyện…có liên quan mật thiết đến toán học. Từ đó, học sinh tham gia tiết học tích cực, hào hứng hơn, các em không còn cảm giác bị gò ép, căng thẳng và chán nản nữa, đồng thời các em sẽ nhận thức được tính thực tiễn của bộ môn. Chẳng hạn: Khi dạy bài “Đường trung bình của tam giác” tôi đưa ra vấn để làm thế nào để gián tiếp đo khoảng cách giữa hai điểm B, C ở hai bên bờ ao. Khi dạy bài “Đối xứng trục” vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để cắt được một chữ H nhanh như tờ giấy hình chữ nhật. Khi dạy bài “Hình thoi” tôi hỏi vì sao các thanh sắt ở cửa xếp lại dễ dàng đầy vào, kéo ra được. Với bài “ Diện tích hình thang” để học sinh nhớ công thức tôi cho các em ghi nhớ theo câu nói vần: “Muốn tính diện tích hình thang , đáy lớn đáy bé ta mang cộng vào, rồi đem nhân với chiều cao, chiađôi lấy nửa thế nào cũng ra”. AB CDAH . C B . H A B + SABCD = 2 D Mỗi kiểu bài đều có một đặc thù riêng và phương pháp dùng hình ảnh trực quan rất thích hợp đối với hình học: mô hình, vật thật, tranh vẽ… là yếu tố không thể thiếu khi vào tiết dạy. Ngoài ra giáo viên nên tìm tòi những vật thật trong thực tế để tạo sự mới lạ và thú vị cho học sinh, như dạy bài đường thẳng song song cách đều tôi chỉ cho học sinh hình ảnh các song cửa sổ, các thanh rui mèn ở mái nhà, H C 10 https://tailieuhocsinh.com/
dạy bài diện tích đa giác tôi yêu cầu học sinh về nhà xem diện tích mảnh vườn nhà mình mấy m2… Vận dụng cách làm đó lớp học rất vui vẻ, học sinh tham gia xây dựng bài tích cực, đồng thời các em sẽ nhớ và vận dụng làm bài tập nhanh hơn và lâu hơn. - Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá giỏi, trung bình, yếu kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng từ đó lôi cuốn tất cả các em cùng tham gia vào xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên cũng cần phải gợi mở, dể hiểu để kích thích sự suy nghĩ của các em. Ví dụ:Khi xây dựng Đinh lý Ta-lét trong bài “Định lý Ta-lét trong tam giác”. Giáo viên treo bảng phụ ?3 Gợi ý: Vì các đường kẻ ngang là các đường thẳng song song cách đều nên các đoạn liên tiếp trên AB bằng nhau, các đoạn liên tiếp trên AC cũng bằng nhau. Giả sử lấy m làm đơn vị một đoạn chắn trên AB, n làm đơn vị một đoạn chắn trên AC. Hỏi học sinh kém đoạn AB’ mấy đơn vị? ' AC ?; AB Gọi học sinh trung bình so sánh hai trường hợp còn lại Yêu cầu học sinh khá phát biểu thành định lý từ bài toán trên. Gọi học sinh giỏi nêu GT, KT. Làm như vậy trong một tiết học tôi huy động hết đối tượng học sinh vào xây dựng bài học. 2.2. Tạo không khi “học mà vui,vui để học” trong những tiết ôn tập. - Môn Hình học sau mỗi phần hoặc chương giáo viên phải hệ thống hoá kiến thức trọng tâm, để tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tạo ra những cách chơi: Hệ thống kiến thức bằng sơ đồ hoặc bảng rồi yêu cầu học sinh điền vào những chỗ trống. Việc làm này giúp học sinh nhận thấy sự liên quan giữa các phần đã học. Từ đó các em khắc sâu kiến thức và nhớ lâu hơn. A B’ C’ B C AB ' AB ' AC ' Hỏi học sinh yếu tỉ số ; từ đó so sánh hai tỉ số = = ? ; AC AB AC 11 https://tailieuhocsinh.com/
Chẳng hạn: Phần “Tứ giác” giáo viên chuẩn bị sơ đồ về mối liên hệ của các tứ giác trên bảng phụ kết hợp với các hiệu ứng trình chiếu trên giáo án điện tử thay đổi theo từng hình cho các em trả lời định nghĩa, tính chất, dấu hiệu nhận biết: Sơ đồ tư duy về mối quan hệ giữa các tứ giác Sơ đồ tư duy về hình chữ nhật 12 https://tailieuhocsinh.com/
Sơ đồ tư duy về trường hợp đồng dạng thứ nhất Tuy nhiên, sự hứng thú học phân môn hình học không chỉ được tạo ra trong tiết học mà còn phải kích thích cho học sinh trong thời gian học ở nhà. Chính vì vậy, đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy có thể phối hợp với những giáo viên dạy trong cùng phân môn ở các khối lớp tổ chức những chuyên đề tìm ra những cách giải nhanh, ngắn gọn cho một bài toán hoặc sáng tạo ra những thiết bị, mô hình ứng dụng của hình học…Những tình huống phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo, giúp các em tin tưởng và yêu thích môn học. 2.3. Tạo hứng thú cho học sinh khi áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Môn Hình học là phân môn gắn liền với thực tế cuộc sống, vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần cho học sinh liên hệ kiến thức đã học vào thực tế, sử dụng các kiến thức hình học vào các công việc thường ngày. Điều này làm cho học sinh khỏi phải trừu tượng khi học lý thuyết và các em có thể nhớ kiến thức lâu hơn. Ví dụ:Khi học chương Tứ giác giáo viên hướng dẫn cho học sinh cắt thế nào để được chính xác các hình: hình thanh cân thì phải gấp một lần tờ giấy cắt hai đáy song song trước rồi cắt hai cạnh hai bên bằng nhau; cắt hình thoi thì phải gấp hai lần tờ giấy rồi cắt cạnh của nó vì hình thoi có hai đường chéo là trục đối xứng và bốn cạnh bằng nhau. Học xong chương II “Diện tích đa giác” giáo viên tổ chức một buổi thực hành chia lớp thành 4 tổ mỗi tổ đo một khu vực của khuôn viên trường sau đó tổng hợp lại để biết được diện tích của khuôn viên trường. 2.4. Tạo không khí nhẹ nhàng ,sôi nổicho học sinh khi giải bài tập. Học sinh thường gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài tập hình học vì nó có tính chặt chẽ, lôgic và trừu tượng nên giáo viên cần cho học sinh phân tích kỹ 13 https://tailieuhocsinh.com/
bài toán theo hướng đi lên hoặc đi xuống và cho các em nhắc lại kiến thức cũ có liên quan đến bài toán. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh giải bài tập 54 trang 96 SGK tôi phân tích theo sơ đồ: B, C đối xứng nhau qua O B, O, C thẳng hàng và OB = OC Ô1 + Ô2 + Ô3 + Ô3 = 1800 và OB = OC = OA Ô2 + Ô2 = 900, OAB cân, OAC cân. Khi giải bài tập giáo viên cho học sinh hoạt động theo nhóm từ 4 đến 6 người, tuỳ yêu cầu của bài toán, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc chủ định, được giao cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhón trưởng nếu thấy cần, trong nhóm phân công mỗi người một việc, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, giúp đỡ nhau giải quyết vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Nhóm cử ra một người đại diện trình bày trước lớp. Ví dụ:Trong giờ luyện tập cuối chương “Tứ giác” giáo viên đưa ra bài tập 89, trang 111 SGK. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm theo 4 trình độ yếu kém, trung bình, khá, giỏi. Phân công nhiệm vụ nhóm yếu kém làm câu a), nhóm trung bình làm câu b), nhóm khá làm câu c), nhóm giỏi làm câu d). Sau đó giáo viên gọi bất kỳ một đại diện nào của nhóm báo cáo kết quả. Đối với phân môn hình học việc chọn lọc và phân loại bài tập là rất quan trọng, vì vậy giáo viên có thể chia bài tập ra làm nhiều dạng: bài tập cơ bản áp dụng ngay công thức, định nghĩa, định lý vừa học giúp học sinh có niềm tin và khắc sâu kiến thức; dạng bài tập thực tế cho thấy tính thực tiễn của toán học; dạng bài tập suy luận tổng hợp đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ, hứng thú khám phá…nhằm củng cố lại kiến thức của phần học hay chương đó. Khi làm được điều này nó thuận lợi rất nhiều khi giao và hướng dẫn bài tậo về nhà cho các em, từ đó các em có thể làm những bài tập tương tự. 2.5. Tạo động lực,hứng thú cho học sinh khi vẽ hình. Học phân môn Hình học thì một yếu tố rất quan trọng là học sinh phải biết vẽ hình. Thế nhưng vẽ ra sao? Yếu tố nào trước? Yếu tố nào sau? Ký hiệu như thế nào? Khi vẽ thì cần dụng cụ gì?... Điều này học sinh cần có một quá trình rèn luyện lâu dài dưới sự chỉ dẫn của giáo viên ngay từ khi các em làm quen kiến thức mới. y C E A 3 4 2 1 x O K B 14 https://tailieuhocsinh.com/
Khi vẽ hình cần xác định cho học sinh vừa đọc vừa vẽ, cần bổ sung các yếu tố phụ và biết biểu diễn các ngôn ngữ sang ký hiệu hình học. - Để thực hiện những điều đó giáo viên phải lựa chọn cách vẽ để hướng dẫn học sinh vẽ hình. Cụ thể: + Rèn cho học sinh có thói quen ký hiệu trên hình vẽ các trường hợp: Điểm, các đoạn thẳng bằng nhau, các góc bằng nhau, các trường hợp vuông góc, bổ sung các yếu tố phụ trên hình… + Hướng dẫn học sinh cách sử dụng các dụng cụ: Êke: Vẽ góc vuông, hai đường thẳng song song… Compa: Vẽ đường tròn, hình tròn, hai đoạn thẳng bằng nhau, … Thước thẳng: Vẽ đường thẳng… - Một yếu tố gây nhiều hứng thú nhất khi học hình học đó là sử dụng phấn màu khi trình bày hình vẽ trên bảng giáo viên nên sử dụng phấn màu hợp lý ở các điểm đặc biệt, đường đặc biệt giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức từ hình vẽ. - Ở một số tiết giáo viên nên sử dụng phần mềm PowerPoint trình chiếu các bước vẽ hình cho học sinh quan sát. Ví dụ: Vẽ hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Do vậy khi tôi yêu cầu nêu cách vẽ hình thoi thì học sinh đã phát hiện có thể dùng compa để vẽ bôn cung tròn có bán kính bằng nhau, giao điểm của bốn cung tròn đó chính là bốn đỉnh của hình thoi. Tôi đã chuẩn bị các bước dựng hình thoi và đặt toàn bộ phần dựng hình ở chế độ tự động (Automatic) cứ 1 giây thì hiện 1 đối tượng: B A R C - Lấy hai điểm A, C bất kỳ D - Vẽ cung tròn tâm A bán kính R và cung tròn tâm C có cùng bán kính. - Hai cung tròn trên cắt nhau tại hai điểm B và D. - Kẻ các đoạn thẳng AB, BC, CD, DA ta được hình thoi ABCD. Học sinh vừa quan sát vừa lắng nghe giáo viên giới thiệu lần lượt từng bước dựng hình thoi, từ đó có thể vẽ lại dựa vào vở của mình không mấy khó khăn. Tóm lại, các bài tập đều yêu cầu học sinh vẽ hình, nên khi vẽ các em phải đọc kỹ bài, đọc đến đâu vẽ đến đó, vẽ rõ ràng và dùng đúng dụng cụ vẽ, từ đó học sinh trả lời yêu cầu đề bài. Đặc biệt phải hình thành cho học sinh thói quen phân tích kỹ đề bài, định hướng vẽ và dự đoán các trường hợp xảy ra, không nên vẽhình đặc biệt, điểm đặc biệt. 15 https://tailieuhocsinh.com/
Chẳng hạn: + Cho tam giác ABC thì vẽ không nên vẽ cân, vuông hay đều. + Cho M là điểm nằm giữa AB thì không nên lấy tại trung điểm của AB. III. KẾT QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG Trong sáng kiến này tôi chỉ nêu ra những hạn chế của học sinh khối 8 ( lớp 8A1) năm học 2018-2019 trường THCS Lang Sơn trong việc học môn toán nói chung và phân môn hình học nói riêng.Những khó khăn học sinh mắc phải từ đó đua ra các giải pháp hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán. Qua đó cải thiện và nâng cao chất lượng môn Toán trong nhà trường Trong quá trình giảng dạy năm học vừa qua khi áp dụng kinh nghiệp của mình để soạn giảng và vận dụng vào thực tế thì tôi thấy có sự thay đổi: - Học sinh đã có những thái độ học tập tích cực, thích thú hơn trong tiết học, chủ động nêu lên những thắc mắc, khó khăn về bộ môn với giáo viên, các em hưởng ứng rất nhiệt tình. Bên cạnh đó những bài tập giao về nhà đã được các em làm một cách nghiêm túc, tự giác học bài và nắm được các kiến thức cơ bản sau khi học xong mỗi bài. - Phần lớn chất lượng các bài kiểm tra đã được nâng lên, các em đều vẽ hình đúng, xác định hướng đi bài toán, số học sinh minh chứng lôgic và chặt chẽ được tăng. - Từ những bài học đa số các em đều vận dụng vào thực tiễn từ những kiến thức đã học: Đo đạc, cắt hình, xác định tính đối xứng của vật thể, … Cuối năm học điều tra mức độ hứng thú học môn Hình học lớp 8A1kết quả như sau: Số HS có hứng thú Số HS không có hứng thú Số HS SL % SL % 30 20 66,7% 10 33,3% So với đầu học kỳ I số học sinh hứng thú học phân môn Hình học tăng 60,0%. Kết quả khảo sát cuối năm học chất lượng phân môn Hình học chưa thật sự như mong muốn tuy nhiên các em đã biết cách để làm một bài toán chứng minh hình học.Cụ thể qua bài kiểm tra học kỳ II cuối năm kết quả đạt được như sau (phần hình học) 16 https://tailieuhocsinh.com/
Khá giỏi TB Yếu kém Số HS SL % SL % SL % 30 12 40% 12 40% 6 20 % Kết quả bài kiểm tra học kì II môn toán đạt như sau Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 30 8 26,7 10 33,3 10 33,3 2 6,7 0 0 Điểm tổng kết cả năm môn toán đạt như sau: Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 30 9 30 12 40 7 23,3 2 6,7 0 0 Từ kết quả áp dụng trong thực tế giảng dạy Toán học của bản thân, tôi nhận thấy đề tài “Một vài kinh nghiệm hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán” có thể áp dụng với tất cả các đối tượng học sinh khối 8 trong các nhà trường phổ thông, với tất cả những người làm công tác giảng dạy Toán. Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình huống sư phạm thích hợp nhằm giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn toán THCS nói chung và học sinh lớp 8 nói riêng. IV. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN Trong quá trình giải và trình bày cách giải bài toán của học sinh còn nhiều sai sót và nhầm lẫn trong các ký hiệu toán học, cách lập luận, hoặc do không cẩn thận…Phần trình bày trên chỉ là một số ví dụ điển hình cho mỗi loại sai sót và những biện pháp chủ quan của bản thân rút ra trong quá trình giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy, để giúp học sinh nắm được cách trình bày từng dạng toán cụ thể đó, khắc phục dần những hạn chế, yếu kém trong việc giải toán của bản thân học sinh thì người GV cần thực hiện những nội dung sau: - Thường xuyên kiểm tra việc nắm kiến thức tại lớp cũng như việc học bài cũ ở nhà kịp thời động viên các em nỗ lực phấn đấu vươn lên trong học tập. 17 https://tailieuhocsinh.com/
- Trong các tiết dạy nhất là tiết luyện tập ghi lại các sai sót mà học sinh gặp phải để có kế hoạch bổ sung kịp thời cho các em, chỉ rõ sai sót cụ thể cho cần rèn luyện và giáo viên kiểm tra lại. - Thông qua tiết luyện tập giáo viên cần phân dạng bài tập cụ thể và mỗi dạng đều có bài giải trình bày mẫu rõ ràng cho các em tập giải theo bằng các bài tập “rập khuôn” với dạng bài mẫu sau đó mới phát triển thành các dạng bài tập liên quan đến dạng vừa giải. - Kiên trì, bền bỉ rèn luyện cho các em các dạng toán trên trong suốt năm học. - Xác định vốn kiến thức cơ bản, tối thiểu của từng bài trong chương, khắc sâu các dạng bài toán và cách giải qua từng bài học và hệ thống hoá kiến thức để học sinh nắm được qua các tiết ôn tập. - Gần gũi, chan hòa với học sinh, gây hứng thú trong mỗi tiết học, qua từng bài toán, qua các trò chơi vui học. - Có biện pháp thưởng phạt công minh, thích đáng qua việc kiểm tra bài tập của học sinh trên lớp, ở vở ghi, kiểm tra viết, kiểm tra bài tập về nhà bằng cách ghi điểm học tập cụ thể, công khai. - Đối với những dạng toán cơ bản, giáo viên ra thêm bài tập để học sinh về nhà giải thêm. Lưu ý những em học sinh yếu: Nếu mắc phải những sai sót nào thì giáo viên ra bài tập để sửa sai dạng đó có sự kiểm tra, sửa sai kịp thời. 18 https://tailieuhocsinh.com/
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT I. KẾT LUẬN cho học sinh tôi thấy học sinh lĩnh hội được kiến thức một các thoải mái, rõ ràng có hệ thống. Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu , kém học tốt phân môn hình học 8 nói riêng và môn toán nói chung là việc làm rất khó khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương, một chút hy sinh và tinh thần trách nhiệm. Với cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề như trên, trong khi truyền thu Thực tiễn dạy học trong thời gian qua và việc áp dụng các giải pháp trên vào quá trình dạy học môn Toán nói chung và môn Hình học 8 nói riêng tôi đã rút ra một số bài học cơ bản sau: -Mỗi giáo viên cần phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện để không ngừng trau dồi về kiến thức kỹ năng dạy học môn Hình học. -Thường xuyên đổi mới về cách soạn, cách giảng, đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, đa dạng hoá các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để lôi cuốn được học sinh vào quá trình học tập. - Cần quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu kém, giúp đỡ ân cần, nhẹ nhàng tạo niềm tin, hứng thú cho các em vào môn học. -Trong quá trình dạy giáo viên phải hướng dẫn học sinh vào việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tạo ra những tình huống có vấn đề để học sinh thảo luận. Trong mỗi tiết phải tạo ra được quan hệ giao lưu đa chiều giữa giáo viên –học sinh, giữa cá nhân, tổ chức nhóm. - Giáo viên cần mạnh dạn đưa các ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học như các phần mềm vẽ hình, các loại máy chiếu đa năng, máy chiếu hắt, các hiệu ứng hình ảnh để tiết học thêm sinh động. Sau nghiên cứu và triển khai vấn đề này bản thân tôi nhận thấy: Để hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán nói chung và phân môn Hình học 8 thì giáo viên phải tạo hứng thú cho học sinh thông qua tìm hiểu kiến thức mới, thông qua các buổi thực hành, thông qua việc phân loại bài tập, hướng dẫn học sinh giải bài tập, qua việc vẽ hình…Đồng thời phải luôn gần gũi, tìm hiểu những khó khăn, sở thích của học sinh để từ đó có những biện pháp phù hợp hơn. Bên cạnh đó cần có những thời lượng phù hợp áp dụng kiến thức hình học vào thực tiễn đời sống và để học sinh thấy được tính khoa học và giá trị thực tiễn của bộ môn. 19 https://tailieuhocsinh.com/
tốn, nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuýêt. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý, bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của chúng tôi ngày càng phong phú và hữu hiệu hơn. Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm II. NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT Để thực hiện đề tài có hiệu quả cần: tượng học sinh yếu kém. - Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để xác định đối - Có kế hoạch phụ đạokịp thời. giờ chính khoá và đặc biệt tăng cường các buổi phụ đạo cho học sinh yếu kém. - Nâng cao chất lượng đại trà của các khối lớp bằng các buổi học ngoài môn với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. - Tăng cường phối hợp giữa gia đình với nhà trường, giữa giáo viên bộ lạc bộ giúp nhau học tập.... - Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu Xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Phạm Xuân Khánh 20 https://tailieuhocsinh.com/
Tµi liÖu tham kh¶o 1.Phan §øc ChÝnh - T«n Th©n-SGK To¸n 8 tËp 1 - NXBGD 2.Phan §øc ChÝnh - T«n Th©n-SGV To¸n 8 tËp 1 - NXBGD 3. Hoµng Ngäc DiÖp - ThiÕt kÕ bµi gi¶ng To¸n 8 tËp 1- NXBHN 4. Nhóm tác giả: Lê Văn Hồng - Phạm Đức Quang - Nguyễn Thế Thạch - Nguyễn Duy Thuận - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III ( 2004 - 2007), NXB Giáo dục, 2007. 21 https://tailieuhocsinh.com/
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ LANG SƠN ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. T.M HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT HẠ HOÀ ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. T.M HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG 22 https://tailieuhocsinh.com/