0 likes | 8 Views
u0110u1ed1i vu1edbi cu00e1ch mu1ea1ng thu00e1ng Tu00e1m, Hu1ed3 Chu00ed Minh u0111u00f3ng vai tru00f2 to lu1edbn. Ngu01b0u1eddi u0111u00e3 tu00ecm u0111u01b0u1eddng cu1ee9u nu01b0u1edbc, mu1edf ra lu1ed1i u0111i u0111u00fang u0111u1eafn, su00e1ng suu1ed1t vu00e0 phu00f9 hu1ee3p vu1edbi thu1ef1c tiu1ebfn hou00e0n cu1ea3nh nu01b0u1edbc ta. Vu00e0 cu0169ng chu00ednh Ngu01b0u1eddi u0111u00e3 du00e0y cu00f4ng chu0103m lo, vun u0111u1eafp cho cu00e1ch mu1ea1ng.Ngu01b0u1eddi chuu1ea9n bu1ecb vu1ec1 nhiu1ec1u mu1eb7t tu1eeb tu01b0 tu01b0u1edfng u0111u1ebfn tu1ed5 chu1ee9c, tu1eeb mu1ed1i u0111ou00e0n ku1ebft tou00e0n du00e2n u0111u1ebfn u0111ou00e0n ku1ebft quu1ed1c tu1ebf, chuu1ea9n bu1ecb tu1eeb lu1ef1c lu01b0u1ee3ng chu00ednh tru1ecb u0111u1ebfn lu1ef1c lu01b0u1ee3ng vu00f5 trang, u0111u1ebfn cu0103n cu1ee9 u0111u1ecba; chuu1ea9n bu1ecb cho cu1ea3 tu01b0u01a1ng lai cu1ee7a u0111u1ea5t nu01b0u1edbc tu1eeb nhiu1ec7m vu1ee5 tru01b0u1edbc mu1eaft cu0169ng nhu01b0 u0111u1ecbnh hu01b0u1edbng lu00e2u du00e0i<br>
E N D
Së gi¸o dôc & ®µo t¹o Hßa B× nh Tr- êng THPT d©n téc néi tró tØnh Hßa B×nh Hä vµ tªn: §oµn ThÞ TH¶o Tæ: V¨n- Sö- ®Þa VAI TRÒ CỦA BÁC HỒ ĐỐI VỚI SỰ CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNGCHO CÁCH MẠNG THÁNG 8 – 1945 VÀ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP 2/9/1945 HÒA BÌNH –NĂM 2013 1 https://tailieu.top/
Phụ lục Phần thứ nhất : Mởđầu…………………………………..…………3 I/ Lý do chọn đềtài………………………………………………….….............3 Phần thứ hai: Nội dung...................................................................... 5 Chương I: Hành trình tìm đường cứu nước..................................... 5 1/ Cơ sở lí luận.......................................................................................................5 2/ Cơ sở thực tiễn..................................................................................................5 3/ Vai trò của Bác đối với các thời kì các mạng cho dến cách mạng tháng Tám 1945......................................................................................................................11 Chương II: Nguyễn Ái Quốc vềnước trực tiếp chỉđạo cách mạng 1/ Hội nghịBCHTƯ Đảng cộng sản Đông Dương tháng 5/1941.......................13 2. Vai trò của Bác trong việc xây dựng lực lượng cách mạng..............................14 2.1Xây dựng lực lượng chính trị quần chúng: .....................................................15 2.2Xây dựng lực lượng vũ trang...........................................................................17 2.3 Bác Hồ có công lao to lớn trong việc xây dựng căn cứđịa cách mạng……..19 2.4/ Bác có công lao to lớn trong việc lãnh đạo tổng khởi nghĩa:………………19 3. Bản Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 với các văn kiện quan trọng của giai cấp tư sản từ thế kỉ XVIII-XIX…………………………………………………………21 3.1/ Bản “tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ”……………………....……………21 3.2 Bản “tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của nước Pháp……………….22 3.3 Mối quan hệ giữa các văn kiện đó với tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945………………………………………………..22 Phần thứ ba: Kết luận và kiến nghị ...............................................29 2 https://tailieu.top/
PHẦN THỨ NHẤT: MỞĐẦU I/ Lý do chọn đề tài Trong mấy năm gần đây, khi ôn thi tốt nghiệp hay ôn thi Cao đẳng Đại học, bao giờcũng có những nội dung hoặc những câu hỏi về nội dung cơ bản của tuyên ngôn độc lập hoặc hoàn cảnh, ý nghĩa của sựra đời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay về Nguyễn Ái Quốc với cách mạng tháng Tám 1945. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nhà nước dân chủnhân dân đầu tiên ởĐông Nam Á và nó đã có một ý nghĩa hết sức quan trọng: Bởi vì với sự thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 đã đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi địa vị nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước. Ta vừa đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật giành độc lập cho dân tộc, vừa lật đổ ngai vàng của chếđộ phong kiến tồn tại hàng ngàn nămởnước ta. Thực sự dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc thực dân, phong kiến. Nhưng khi ta giành được thắng lợi đó thì công lao thuộc vềai? Vai trò lãnh đạo thuộc về ai? Nếu không có Đảng cộng sản, không có Bác lãnh đạo thì ta có thể khởi nghĩa thắng lợi và giành được thắng lợi một cách nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn chỉcó 15 ngày như vậy không? Đểcó được thành quảnhư Cách mạng tháng 8 thì Đảng ta đã phải có sự chuẩn bị trong suốt cả15 năm và đã xây dựng được các lực lượng hùng hậu đầy đủ với những chiến lược, sách lược thật khôn khéo và đúng đắn.v.v… Tất cả những câu hỏi đó được diễn ra qua nhiều năm dạy lớp 12 và ôn thi tốt nghiệp cho học sinh môn Lịch sử, và cũng nhiều năm nay môn Lịch sửthường xuyên được đưa vào thi tốt nghiệp. Với vị trí và tầm quan trọng của nó, tôi là một giáo viên Lịch sử dạy trường có đặc thù riêng: Đó là đối tượng giáo dục là học sinh dân tộc nội trú, hầu hết các em ởvùng sâu, vùng xa, nơi có trình độ dân trí còn thấp, muốn làm cho các em yêu thích bộ môn Lịch sửvà có điều kiện tìm hiểu sâu về bộmôn đòi hỏi tôi và các đồng nghiệp cùng môn trong trường thường tổ chức một số hình thức để cho các em tìm hiểu thêm với các hình thức như: tổ chức ngoại khóa, cho một số câu hỏi để các em tìm hiểu trong những tháng có những ngày kỉ niệm, ngày lễ lớn như 3/2, 30/4, 7/5, 19/5, 19/8, 2/9, 22/12.v.v… Qua những hình thức tổ chức như vậy, bản thân tôi thấy học sinh hưởng ứng rất nhiệt tình và có chất lượng, đặc biệt là hiện nay có thuận lợi khi các phương tiện thông tin đại chúng đã phát triển các em có cơ hội thu thập thông tin. Qua bài viết này tôi muốn trao đổi với các đồng nghiệp về Vai trò của Bác Hồ đối với sự chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng tháng 8/1945 và bản tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 với các văn kiện quan trọng của giai cấp tư sản thế kỉ XVIII – XIX. Khi tổ chức cho học sinh hiểu, tôi cho một số câu hỏi để học sinh tự tìm 3 https://tailieu.top/
hiểu về Bác, vềĐảng và về cách mạng trước để cách em tiếp nhận những thông tin một cách tự nhiên… Từđó tôi yêu cầu học sinh rút ra những lời nhận xét về mối quan hệ giữa các sự kiện như vai trò của Bác, công lao của Bác đối với cách mạng tháng 8/1945, Bản tuyên ngôn độc lập năm 1945. Mối quan hệ giữa bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với các bản tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới từ thế kỉ XVIII – XIX. Qua các cuộc thi tìm hiểu nhằm khắc sâu thêm về tinh thần yêu nước và công lao to lớn của Bác đối với Cách mạng Việt Nam không những chỉở thế kỉ XX mà cho tới tận hôm nay và mai sau. Muốn làm sáng tỏđược vai trò của Bác đối với Cách mạng tháng tám thì ta phải thấy được công lao to lớn của Người gắn liền với công lao của Đảng, vì mỗi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng bao giờcũng bắt nguồn từtư tưởng của Hồ Chủ Tịch sau đó đưa ra cho BCHTƯĐ bàn bạc nhất trí thông qua và từđó trở thành chủtrương, đường lối, chính sách của Đảng và cũng từ chủtrương, đường lối và chính sách ấy đã được quần chúng nhân dân thực hiện. Công lao của Bác còn được thể hiện từ lời nói, lời huấn thị, lời kêu gọi, lời tuyên bố, lời dạy….Tất cả mọi lời nói, hành động của Bác đều trở thành tấm gương mẫu mực, có sức lôi kéo mọi người dân cùng noi theo vì những lí do như vậy, cho nên tôi đã chọn đề tài này. 4 https://tailieu.top/
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG CHƯƠNG I:HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC 1/ Cơ sở lí luận Đối với cách mạng tháng Tám, HồChí Minh đóng vai trò to lớn. Người đã tìm đường cứu nước, mở ra lối đi đúng đắn, sáng suốt và phù hợp với thực tiến hoàn cảnh nước ta. Và cũng chính Người đã dày công chăm lo, vun đắp cho cách mạng.Người chuẩn bị về nhiều mặt từtư tưởng đến tổ chức, từ mối đoàn kết toàn dân đến đoàn kết quốc tế, chuẩn bị từ lực lượng chính trịđến lực lượng võ trang, đến căn cứđịa; chuẩn bị cho cảtương lai của đất nước từ nhiệm vụtrước mắt cũng như định hướng lâu dài Người có công lao to lớn biết kết hợp một cách đúng đắn, sáng tạo giữa nhiệm vụ dân tộc dân chủvà luôn giương cao ngọn cờđộc lập dân tộc lên hàng đầu nhằm tập hợp được các lực lượng và để thực hiện cho được nhiệm vụ quan trọng cần thiết cấp bách của cuộc cách mạng Việt Nam đó là nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Người đánh giá đúng đắn và tập hợp tổ chức các lực lượng cách mạng trong đó có công nhân và nông dân luôn đóng góp vai trò quan trọng và chủđạo. vì vậy, Người đã thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đồng thời biết phân hóa, cô lập kẻthù .v.v… Người nắm vững và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm về bạo lực cách mạng. Kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Hình thức đấu tranh của nhân dân ở vùng nông thôn và thành thị, đồng thời biết chớp lấy thời cơ phát động toàn dân khởi nghĩa để giành chính quyền. 2/ Cơ sở thực thiễn Nguyễn Ái Quốc lớn lên trong cảnh gia đình li tán, đất nước mất độc lập chủ quyền nhân dân ta trở thành nô lệ, sống lầm than, khổ cực. Các cuộc đấu tranh chống xâm lược bị thất bại đăc biệt là phong trào Cần Vương, chúng tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Người chứng kiến hàng loạt các phong trào yêu nước như phong trào Đông Du (1905-1908) Đông kinh nghĩa thục 1908, Phong trào Duy Tân 1907-1908, bị thất bại, Người được tiếp xúc với các nhà cách mạng đầu thế kỉ XX: Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, Người không tán thành con đường cứunước của họ vì người cho rằng dựa vào đế quốc để đánh đế quốc là điều không tưởng vì đế quốc nào cũng tham lam giống nhau, còn đối với con đường cải cách của Phan Châu Trinh thì chẳng khác nào xin giặc rủlòng thương. Còn Hoàng Hoa Thám thì thực tế hơn, trực tiếp lãnh đạo nông dân đấu tranh nhưng còn nặng về cốt cách phong kiến . Trên thếgiới lúc này hệ thống các nước tư bản đi xâm lược và hình thành hệ thống thuộc địa, chủ nghĩa tư bản đã bao trùm thế giới còn phong trào đấu tranh 5 https://tailieu.top/
của các nước thuộc địa đều thất bại. Trước hoàn cảnh đất nước và thế giới như vậy Nguyễn Ái Quốc quyết địnhđi tìm con đường cứu nước phía trời Tây với nhận thức ban đầu là: muốn đánh kẻ thù phải biết rõ kẻ thù đó, xem thế giới người ta làm cách mạng như thế nào để về giúp đỡ đồng bào ta, đây là tiền đề tư tưởng đúng đắn giúp Nguyễn Ái Quốc tìm đến chủ nghĩa Mác Lênin. Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, nay thuộc xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong quãng thời gian từ khi sinh ra đến trước khi xuất dương, Bác đã sinh sống ở nhiều nơi. Đó là quê hương Nghệ Tĩnh với truyền thống yêu nước và đấu tranh chống Pháp kiên cường. Đó là thành Huế với bao cảnh đau lòng của một dân tộc bị làm nô lệ, Nguyễn Tất Thành là người thanh niên vượt qua gian khó, đã sớm bộc lộ mầm mống trí lớn của một con người mà sau này trở thành anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Thời thanh niênNguyễn Tất Thành được học chữ Hán, rồi chữ Pháp của nền giáo dục thực dân. Vốn là con người thông minh ham học hỏi, Nguyễn Tất Thành đã để ý đến câu khẩu hiệu của nước Pháp: Tự do –bình đẳng – bác ái. Và người tự hỏi, đằng sau ba chữ đó là sự thật như thế nào. Và vì sao dân tộc ta vẫn phải chịu cảnh nô lệ lầm than. Những câu hỏi đó cộng với lòng yêu nước, ý chí vượt khó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Tháng 6 năm 1911 Nguyễn Tất Thành lấy tên Văn Ba làm nhân viên phụ bếp tầu buôn Amiran Latutsơ Tơrêvin đi ra nước ngoài tìm đường cứu dân tộc. Sự kiện này là kết quả của những nung nấu trong con người Nguyễn Tất Thành từ những năm tháng học về nền văn minh Pháp. Lúc đó, những người Việt Nam thường hỏi nhau rằng ai sẽ là người cứu giúp nước mình thoát khỏi ách đô hộ, người đoán là Nhật, Pháp, Mĩ, Anh còn Nguyễn Tất Thành thì phải đến tận nơi xem họ làm ăn như thế nào rồi về giúp đồng bào mình. Như vậy, tư tưởng yêu nước và định hướng con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành đã có sự khác biệt so với lớp tiền bối. Đó là tư tưởng tự mình giúp mình thay vì tư tưởng cầu viện nước khác. Nguyễn Tất Thành ra đi không giống trường hợp của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Người ra đi với địa vị của người công nhân, một người làm thuê, từ đó Người có nhiều trải nghiệm về tình cảnh của giai cấp lao động. Có thể chính lý do đó đã lý giải vì sao Bác lại tìm ra được con đường cứu nước theo tư tưởng vô sản và đi theo con đường này đến cùng. Những năm tháng sống ở nước ngoài, Người đã đi qua nhiều nước: Mỹ, Pháp, Anh, Châu Phi… có cả những nước văn minh và những nứơc thuộc địa. Với lòng yêu nước, yêu tự do, với nhãn quan của một người lao động, Nguyễn Tất Thành đã nhận thấy một điều rằng ở bất cứ nơi nào cùng có những cảnh áp bức, bóc lột, bất công. Và Người tổng kết, trên thế giới này chỉ có hai loại người đó là kẻ áp bức và người bị áp bức. Đây là nhận thức được coi là nền tảng để Bác lựa chọn 6 https://tailieu.top/
chủ nghĩa Mác –Lênin, vạch ra con đường đấu tranh chống áp bức bất công triệt để nhất. Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vecxai bản yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tuy không được sự quan tâm của hội nghị Vacxai nhưng kể từ đây, Người đã tỏ rõ bản lĩnh cách mạng của mình. Cái tên Nguyễn Ái Quốc lần đầu xuất hiện trên bầu trời cách mạng Việt Nam. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia tích cực vào Ủy ban Quốc tế III của Đảng Xã hội Pháp. Mục đích của Uỷ ban này là vận động Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế III và bảo vệ cách mạng Nga. Đây có thể coi là cái mốc quan trọng đầu tiên phản ánh sự chuyển biến cả trong tư tưởng lẫn hành động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội khoa học; đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc; giải phóng xã hội, giải phóng con người; về đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về phương pháp cách mạng…. Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc tác phẩm của Lênin: sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo L’Humanité. Tác phẩm của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào. Ngay sau đó Người viết thư bằng tiếng Pháp gửi Quốc tế cộng sản cho biết luận cương này đã ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan của Người. Từ đây Người dứt khoát đi theo Quốc tế Cộng sản. Ngày 25 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội đại biểu Đảng Xã hội Pháp (Đại hội Tour) với tư cách là đại biểu Đông Dương. Đây là lần đầu tiên có một người Việt Nam tham gia mọt Đại hội đại biểu của một chính đảng Pháp. Nguyễn Ái Quốc cũng là người bản sứ duy nhất trong số các đại biểu thuộc địa có mặt trong Đại hội. Trong phiên học buổi chiều ngày 26 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu Đông Dương đã phát biểu lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Bằng những sự thật, Người đã tố cáo sự tàn bạo của thực dân Pháp đã gây ra cho nhân dân Đông Dương và cho rằng: “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”… Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc bài phát biểu bằng câu nói: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân dân tất cả các đảng viên xã hội, cả phái tả lẫn phái hữu, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí hãy cứu chúng tôi!” Trong khuân khổ Đại hội Tour, ngày 29 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏphiếu tán thành tham gia Quốc tế III, sánglập Đảng Cộng sản Pháp. Từ giây phút ấy, Nguyễn Ái Quốc trở thành người Cộng sản. Là một trong những nhà sáng lập ra đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. 7 https://tailieu.top/
Như vậy, sau gần 10 năm bôn ba nhiều nơi, Nguyễn Ái Quốc nhận ra thế giới còn nhiều người bị áp bức bất công và chỉ có chủ nghĩa Mác –Lênin mới chỉ ra con đường tranh đấu đi đến thắng lợi cuối cùng. Cả quá trình đó là sự chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa vô sản. Từ người thanh niên yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản Việt Nam đầu tiên. Mười năm đầu, chủ nghĩa cộng sản mới chỉ xuất hiện trên một con người Việt Nam. Như đây cũng là hạt giống đỏ để nhân rộng ra những người Việt Nam yêu nước sau này. Từ năm 1921 đến 1930: mười năm hoạt động sôi nổi, gian khó, dũng cảm và sáng tạo với tư cách một chiến sĩ cộng sản Quốc tế và người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa năm 1921 Người hoạt động tích cực xúc tiến thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa”. Sáng lập tờ báo Người cùng khổ, viết báo và tích cực hoạt động tại Pháp, tháng 6 năm 1923 Người sang Liên Xô. Cuối năm 1923 Người tham dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông dân, tham gia các Hội nghị khác Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đôngcủa Quốc tế Cộng sản[15]. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam. Nếu như Marx bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, Lenin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Nguyễn Ái Quốc dành sự quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Trong tham luận trình bày tại Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế Cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc chỉ ra sự to lớn của hệ thống thuộc địa: "Năm 1876: 1/4 tỷ người dân thuộc địa thì năm 1914: 1/2 tỷ dân thuộc địa. Đến đầu những năm 20, diện tích các nước thuộc địa gấp 5 diện tích các nước chính quốc, còn dân số chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa. Số dân thuộc địa Anh đông gấp hơn 8,5 số dân nước Anh còn đất đai rộng gấp 252 lần của nước Anh..." Ngày 23-6-1924, phát biểu tại phiên họp thứ 8 Đại hội 5, Nguyễn Ái Quốc nói: “Tôi đến đây không ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là: thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế Cộng sản thấy rằng: cách mạng, ngoài vấn đề tương của các thuộc địa còn có cả nguy cơ của các thuộc địa. Song, tôi thấy rằng hình như các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa. Vì vậy, tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, gợi ra những vấn đề và nếu cần, tôi sẽ thức tỉnh các đồng chí về vấn đề thuộc địa”. Tháng 11 năm 1924 Người đến Trung QuốcNăm 1925 thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên.Năm 1925, ông (lúc này mang tên Vương) lựa chọn một số phần tử tích cực của Tâm tâm xã, huấn luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên Cộng sản đoàn mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn gọi là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6. Hội này phái người về nước vận động và đưa thanh niên 8 https://tailieu.top/
sang Quảng Châu đào tạo. Cho tới 1927, hội mở được 3 khoá gần 10 lớp huấn luyện, đào tạo 75 hội viên, mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Nguyễn Ái Quốc đứng lớp, Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn phụ giảng.Việc làm quan trọng nhất của hội trong thời gian này là cử được người đi học tại Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố của Quốc dân Đảng Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh cũng từng làm việc hoặc học tập ở trường Hoàng Phố. Trần Phú, Lê Hồng Phong, Bùi Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn,… là những người được đưa đi đào tạo tại một trong hai trung tâm trên. Phần lớn người khác, như Nguyễn Lương Bằng, sau đó về nước hoạt động. Chương trình học tập gồm: •Học "nhân loại tiến hóa sử", nhưng chủ yếu học thời kì tư bản chủ nghĩa cho tới đế quốc chủ nghĩa; sau đó học lịch sử vận động giải phóng của Triều Tiên, Trung Quốc, Ấn Độ, lịch sử mất nước của Việt Nam; •Chủ nghĩa Mác-Lenin, học có phê phán chủ nghĩa Tam dân và chủ nghĩa Gandhi. •Phần sau là về tổ chức: lịch sử và tổ chức ba Quốc tế Cộng sản, các tổ chức phụ nữ, thanh niên quốc tế, quốc tế cứu tế đỏ, quốc tế nông dân. •Phần cuối là về vận động quần và tổ chức quần chúng, bài tập là các buổi thực tập. Sau mỗi tuần có "báo cáo học vấn" tại các tiểu tổ, học viên tự kiểm tra, phê bình và tự phê bình lẫn nhau. Ông cũng lập ra tờ Thanh niênlàm cơ quan phát ngôn của hội tới tháng 2 năm 1930, tờ này ra được 208 số. Cuốn Đường Kách mệnhtập hợp các bài giảng của ông, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927. Ông cho rằng để cách mạng thành công, phải coi học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Tư tưởng này của ông trong đầu thập niên 1930 đã vấp phải sự phê phán của một số người cộng sản Việt Nam khác. Ngoài ra, trong thập niên 1920, một trong những quan điểm của ông về cách mạng là: cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Có bằng cớ là trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một hộ lý Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 năm 1927, từ đó không bao giờ còn gặp lại. Nhưng ông cũng đã từng cho rằng ông chưa bao giờ lập gia đình và có vợ con Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư. Tháng 5 năm 1927, chính quyền Trung Hoa Dân Quốcđặt những người cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, ông rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. 9 https://tailieu.top/
Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống chiến tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 12 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Bruxelles, Bỉ. Sau đó, ôngcũng qua Ý. Mùa thu 1928, Hồ Chí Minh từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín (trong tiếng Thái và tiếng Lào, "thầu" chỉ người nhiều tuổi và biểu thị sự tôn kính) để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều, đồng thời móc nối một số thanh thiếu niên Việt Nam sang Thái Lan hoạt động. Theo Bác Hồ - hồi kí, phần kể của Lê Mạnh Trinh thì khi đó có khoảng 2 vạn người Việt sống ở Thái Lan, kiếm sống chủ yếu bằng lao động và sinh sống khá rải rác, thiếu liên kết, tập trung nhiều hơn cả là ở vùng Đông Bắc. Cho tới thời điểm 1928, đa số họ mới di cư sang Thái Lan trong vòng khoảng mấy chục năm. Ngô Quảng, Thần Sơn, Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính... đã từng hoạt động tại Thái, tuy nhiên không ai trong số họ tuyên truyền và tổ chức cho Việt kiều cả.Hồ Chí Minh chủ trương tuyên truyền cho kiều bào và tổ chức họ vào những hội thân ái, tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa cho họ, xin chính phủ Thái cho mở trường dành cho Việt kiều, Hồ Chí Minh đi (chủ yếu là đi bộ) và vận động hầu khắp các vùng có kiều bào ở Thái Lan, giống như tại nhiều nơi đã hoạt động, ông cho in báo - tờ Thân ái. Ba tổ chức cộng sản tại Việt Nam, tuy mới thành lập nhưng đã mâu thuẫn rõ rệt và tranh giành sự ủng hộ của quần chúng. Đông Dương Cộng sản Đảng phê An Nam Cộng sản Đảng là "hoạt đầu, giả cách mạng"; An Nam Cộng sản Đảng chỉ trích Đông Dương Cộng sản Đảng là "chưa thật cộng sản", "chưa thật Bôn-sê- vích"...Ngày 3 tháng 2 năm 1930 (hoặc ngày 6 tháng 1 năm 1930), tại Cửu Long thuộc Hương Cảng, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Namtrong một hội nghị được tổ chức tại nhà một người công nhân, ngoài ông còn có 5 ngườikhác là các đại diện cộng sản. Các văn kiện quan trọng nhất (như Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng) của hội nghị này đều do ông soạn thảo và được cho là thể hiện những quan điểm và tư tưởng khác với chủ trương khi đó của Quốc tế Cộng sản. Bởi vậy, khi Trần Phú về nước vào tháng 4 năm 1930 thì được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời của Đảng và được giao soạn thảo Luận cương chính trị cũng như trở thành Tổng bí thư. Luận cương chính trị này, theo như nhận định chính thống trong các văn kiện và tài liệu ở giai đoạn sau của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang tính tả khuynh rõ rệt.Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung HoaTại hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị xoá bỏ mọi thành kiến, xung đột giữa các tổ chức cộng sản, thành thật hợp tác để thống nhất thành lập một đảng mới, định kế hoạch thực hiện việc thống nhất, cử Ban Trung ương lâm thời.Sau hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam viết lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức bóc lột. 10 https://tailieu.top/
3/ Vai trò của Bác đối với các thời kì cách mạng cho đến cách mạng tháng tám năm 1945 Trong suốt 10 năm từ 1920 đến 1930 với những hoạt sôi nổi và hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc đã đưa chủ nghĩa cộng sản từ một con người phát triển lên một tổ chức. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này là một sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ và kĩ lưỡng từ tư tưởng đến tổ chức, từ con người đến tài liệu… và đây cũng là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Khi đảng ta mới ra đời: Đảng ta đã đưa cuộc cách mạng trải qua thời kì 1930- 1931. Nguyễn Ái Quốc đã chỉđạo quần chúng nhân dân đấu tranh nhằm khẳng định những lực lượng nòng cốt của Cách Mạng Việt nam, đồng thời tích lũy kinh nghiệm để chuẩn bị cho cuộc cách mạng ởgiai đoạn sau.Ví dụ: Cao trào 1930- 1931. Trong các cuộc đấu tranh đã xuất hiện vai trò lãnh đạo của Đảng, đó là sự xuất hiện cờđỏ búa liềm và phong trào đấu tranh chủ yếu là sự tham gia của công nhân và nông dân, hình thức đấu tranh: đã xuất hiện khởi nghĩa vũ trang, đặc biệt là xuất hiện chính quyền mới: chính quyền Xô Viết của dân ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh => Cuộc diễn tập lần thứ nhất cho cách mạng tháng 8-1945 thành công. Giai đoạn 1936-1939: thời kì cao trào dân chủ. Người đã thực hiện sự liên minh dân chủ rộng rãi nhằm xây dựng lực lượng quần chúng, các hình thức đấu tranh khôn khéo, mềm dẻo. kết hợp đấu tranh công khai và bí mật: đấu tranh kinh tế, chính trị, nghịtrường …Nhằm tích lũy lực lượng, kinh nghiệm để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa. Đây là cuộc diễn tập lần 2 cho cách mạng tháng 8-1945.xít Đức chiếm nước đã nhận định đây là thời cơ bắt đầu Pháp. Vì vậy, Người Đặc biệt trong giai đoạn 1939-1945: Do tình hình thế giới có nhiều chuyển biến (9-1939) Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ. sau đó, (tháng 6/1940) phát xít Đức chiếm nước Pháp. Vì vậy, Người đã nhận định đây là thời cơ bắt đầu có lợi cho cách mạng Việt Nam. Người theo dõi sát tình hình thề giới, tình hình trong nước. Trong một khoảng thời gian dài từ 1931 đến 1938 là những năm tháng đau thương của Nguyễn Ái Quốc. Người đã nhiều lần bị chính quyền thực dân Hồng Kông bắt giam, sau đó là tình trạng đình chỉ hoạt động của quốc tế cộng sản đối với Người.Sau khi rời khỏi Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở về Trung Quốc. Tại đây Người đã liên lạc với các đồng chí của Đảng Cộng sản: Hoàng Tùng, Vũ Anh, Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Ngày 20/06/1940 sau khi nghe tin Pari bị phát xít Đức xâm chiếm, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập cuộc họp và phân tích: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng” 11 https://tailieu.top/
Ngày 22/09/1940 Người đưa nhận định: “Đồng minh sẽ thắng. Nhật Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập.Chiến tranh du kích do Việt Minh lãnh đạo dần dần phát triển với những vũ khí thô sơ, gươm, giáo, mác và một số ít khẩu súng cướp được của giặc”. 12 https://tailieu.top/
CHƯƠNG II: NGUYỄN ÁI QUỐC VỀNƯỚC TRỰC TIẾP CHỈĐẠO CÁCH MẠNG 1/ Hội nghị ban chấp hành TƯ Đảng cộng sản Đông Dương tháng 5/1941 Chiến tranh thế giới thứ haibùng nổ, phe trục gồm Đức Ý Nhậtđánh lại phe Đồng Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xô. Sau có Mỹvà nhiều nước nữa tham chiến.Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Thế chiến thứ hai, Chính phủ Vichycủa Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc Xã, đồng ý cho quân đội Nhật Bảnđổ bộ vào Bắc kỳ. Ngay lập tức quân đội Nhật dùng đó làm bàn đạp ảnh hưởng đến các chiến trường Trung Quốc và Đông Nam Á. Trên thực tế, đây là một điểm quan trọng trong chiến lược quân sự của Nhật nhằm thống trị toàn bộ vùng Đông Nam Á. Trong khi chờ đợi cuộc đại thắng của Đứctại châu Âu, Nhậttạm thời duy trì hệ thống bảo hộ của Pháp tại Đông Dương. (Trong những trận đánh lớn hồi đó có thể kể đến việc Hải Quân và Không Quân Nhậtxuất phát từ Cam Ranh và Sài Gòn tiêu diệt Hạm đội Viễn Đông của Anh).Thời gian này, Đảng Cộng Sản Đông Dươnglãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc Sơnnhưng đều thất bại. Những binh lính tham gia chiến tranh Thái Lan thực hiện cuộc Binh biến Đô Lươngcũng thất bại. Ngày 29 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước tại cột mốc số 108 trên biên giới Việt –Trung (địa phận huyện Hà Quảng –Cao Bằng). Ngay sau khi về nước, Người chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương họp từ ngay 10 đến 19 tháng 5 năm 1941. Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ trước mắt chủ yếu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh. Mặt trận Việt Minh “nhằm liên kết hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn” Chươngtrình Việt Minh do Người chủ trì soạn thảo gồm 6 phần: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục đối với tầng lớp nhân dân, ngoại giao. Chương trình này có thể được coi là cơ sở đề soạn thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946). Chủ trương cụ thể: Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam Độc lập Đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn quốc. 13 https://tailieu.top/
Việt Minh cũng công bố luôn Tuyên ngôn và Điều lệ, nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình :"Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. " Tôn chỉ đó đã quy định điều kiện gia nhập Việt Minh :"Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Minh thông qua, thời được gia nhập Việt Minh. " Về tổ chức, Mặt trận có một cơ chế riêng, khác hẳn với cơ chế tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương. Về hệ thống tổ chức, ở các xã có Ban chấp hành Việt Minh do do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kì có Ban chấp ủy Việt Minh cấp ấy; Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ. Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng rõ rệt (như Hội công nhân cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc,...) còn có những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai như Hội cứu tế thất nghiệp, Hội tương tế, Hội hiếu hỉ, nhóm học Quốc ngữ, nhóm đọc sách, xem báo,... Chỉ thị về công tác của Ban chấp hành Trung ương ngày 1 tháng 12 năm 1941 đã chỉ rõ: "Cần phải chú ý không nên dùng phương pháp Đảng mà tổ chức quần chúng, vì Đảng là một tổ chức gồm những phần tử giác ngộ nhất, hăng hái, trung thành nhất, hoạt động nhất của vô sản giai cấp. Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. Còn những tổ chức quần chúng phải rộng rãi, nhẹ nhàng" Từ 1942 trở đi, tình hình chiến tranh Thế giới thứ 2 đã có những biến chuyển tích cực cho phe Đồng Minh. Nguyễn Ái Quốc lúc này nhận thức được vấn đề cần phải tranh thủ sự ủng hộ của phe Đồng Minh cho cách mạng. Ngày 13 tháng 8 năm 1942, với tên mới là Hồ Chí Minh, Người đã sang Trung Quốc để liên lạc với lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng Minh. Trong chuyến đi này, Người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Cuối thánh 8 và đầu tháng 9 năm 1943 sau khi đã vượt qua nhiều khó khăn, rắc rối do phía Quốc dân Đảng Trung Quốc gây ra, Người đã trở về nước. Cuối tháng 9 Người đã kịp thời chỉ thì trì hoãn cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương của Liên tỉnh Cao –Bắc –Lạng tránh những tổn thất khi chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ. Đây là quyết định sáng suốt của Hồ Chí Minh, chứng tỏ một điều cách mạng muốn thành công không chỉ có thời cơ mà quan trọng hơn là sự chuẩn bị đầy đủ và kĩ lưỡng về mọi mặt. 2.Vai trò của Bác trong việc xây dựng lực lượng cách mạng. Trung thành với quan điểm của chủnghĩa Mác. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy, Người chủtrương xây dựng ba lực lượng cách mạng chủ yếu: 14 https://tailieu.top/
+ Xây dựng lực lượng chính trị quần chúng + Xây dựng lực lượng vũ trang. + Xây dựng căn cứđịa cách mạng. Và Người trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa 2.1Xây dựng lực lượng chính trị quần chúng: Từ khi đảng ta ra đời đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa mác lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam trong đó xây dựng lực lượngchính trị đóng vai trò quyết định cho sự thắng lợi cách mạng. Sự ra đời của các tổ chức mặt trận nhằm tập hợp quần chúng đấu tranh.Với tư tưởng: Cách mạng là sự nghiệp chung của quần chúng cho nên phải động viên và tổ chức quần chúng đưa họ vào các phong trào đấu tranh cách mạng, sau HN TƯĐ8 đã tích cực vận động tổ chức nhân dân tham gia vào các mặt trận Việt Minh như tổ chức phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc, thanh niên cứu quốc, bô lão cứu quốc. Giai đoạn: 1930-1931 - Trong khi phong trào cách mạng 1030-1031 đang diễn ra thì hội nghị ban chấp hành TƯ họp vào tháng 10-1930 đã quyết định thành lập hội đồng minh phản đế đông dương nhưng chủ trương này chưa được thực hiện thì đã bị thực dân pháp đàn áp dã man. Giai đoạn 1936-1939: đảng chủ trương thành lập mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương vào tháng 11/1936, đến năm 1938 đổi thành mặt trận Dân chủ Đông Dương,mặt trận ra đời nhằm tập hợp lực lượngdân chủ tiến bộ đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và bọn phản động đòi tự do dân chủ, bảo vệ hào bình TG, cải thiện dân sinh. Giai đoạn 1939-1945: Tháng 11/1939 TƯĐ họp lần VIchủ trương thành lập mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế, nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, dân tộc đảng phái tôn giáo ở Đong Dương nhằm chĩa mũi nhọn vào kẻ thù trước mắt, đặc biệt là chủ nghĩa phát xít đồng thời giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, 5/ 1941HNTƯĐ 8 chủ trương thành lập Việt Namđộc lập đồng minh gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là Hội cứu quốc. Mặt trận Việt MinhNgày 19/5/1941 Mặt trận Việt minh chính thức được thành lập do Nguyên Ái Quốc đứng đầu, có hệ thống và tổ chức khắp cả nước, đây là một trung tâm đoàn kết rộng rãi các dân tộc, giai cấp để cùng chống Pháp- Nhật. Để có được một lực lượng cách mạng hùng hậu: Người cho thành lập lực lượng chính trị của quần chúng gồm các thành phần như công nhân, nông dân, thành phần tiể tư sản, thành phần tư sản dân tộc, thành phần địa chủ yêu nước, các quan lại tiến bộ… Bất kì những ai tán thành cho Việt Nam độc lập đều được gia nhập Việt Minh, xung quanh mặt trận việt minh, Người thành lập các hội cứu quốc của quần chúng tùy theo lứa tuổi, ngành nghềkhác nhau, nhưng đều mang tên chung là cứu quốc, nhằm mục đích nhắc nhở mọi người nhớ nhiệm vụ của cách mạng bây giờ là cứu quốc, cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, tổ chức của mặt trận Việt 15 https://tailieu.top/
Minh sẽ rộng rãi và vững chắc, vì tổ chức này ra đời dựa trên cơ sở liên minh công nông có gốc rễăn sâu ở trong quần chúng nhân dân dưới sựlãnh đạo của Đảng. Thông qua tổng bộ Việt Minh Đảng ta đã phổ biến được chủtrương, đường lối chính sách của đảng đến với quần chúng, nên mặt trận Việt Minh được ví như sợi dây chuyền nối liền giữa đảng và quần chúng. Mặt trận việt minh chính là tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân là một lực lượng lớn mạnh mà Hồ Chủ Tịch đã dạy rằng: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đâịthành công”. Mặt trận Việt Minh ra đời đã gây dựng được uy tín và ảnh hưởng ngày càng lớn trong nhân dân. Ở Cao Bằng nơi thí điểm đểxây dựng các hội cứu quốc cho mặt trận Việt Minh.Năm 1942 khắp 9 châu của Cao Bằng đều có các hội cứu quốc, trong đó có ba châu hoàn toàn, mọi người đều vào Việt Minh, xã nào cũng có Uỷ ban Việt Minh, châu nào cũng có Uỷ ban Việt Minh, Uỷ ban Việt Minh liên tỉnh được thành lập Cao- Bắc- Lạng. Tại các tỉnh miềnBắc: Hà nội, Hải phòng các hội phản đế được chuyển thành hội cứu quốc, đồng thời nhiều hội cứu quốc khác được thành lập, đảng vừa ra sức phát triểnlực lượngở nông thôn và vừa phát triển phong tràoở thành thị vì chủ trương của Đảng là: xây dựng các đoàn thể cứu quốctrong công nhân, học sinh sinh viên và các tầng lớp nhân dân thành thị. Năm 1943 uỷ ban liên tỉnh Cao Bắc lạng lập ra 19 ban xung phong Nam tiến nhằm liên lạc với căn cứ địa vùng Bắc sơn, Võ nhai đồng thời phát triển căn cứ địa cách mạng xuống miền xuôi. Mặt trận Việt Minh đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của nhân dân thu hút mọi tầng lớp nhân dân vào mặt trận mặc dù bị địch khủng bố nhưng các hội cứu quốc vẫn được thành lập Hội công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc Từ ngày 25- 28/5/1943 Ban thường vụ TƯĐ họp ở Võng La( Đong Anh- HN) đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển mặt trận Việt Minh, cũng trong năm này Đảng côngbố bản đề cương văn hoá Việt Nam, đã vạch rõ chính sách tính chất phản động trong chính sách nô dịch ngu dân của Pháp Nhật, nêu cao tầm quan trọng của văn hoáViệt Nam, xác định văn hoá cũng là một mặt trận và chủ trương xây dựng một nền văn hoá mới dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: Dân tộc, khoa học, đại chúng nhằm vận động Hội Việt Nam cứu quốc. Năm 1944 Đảng dânchủ Việt Nam và Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam được thành lập, đã hoạt độngtích cực góp phầnmở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, mặt trận Việt Minh tiếp tục vận động tập hợp các lực lượngyêu nước chống phát xít của người Việt trong quân đội Pháp ở nước ngoài, ngoại kiều ở Đông Đương tham gia tổ chức mặt trận Việt Minh. Ngày 7/5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn k/n. Ngày 10/8/1944 TƯĐ kêu gọi nhân dân sắm sửa vũ khí đuổi thù chung. Vì vậy các hội cứu quốc tiếp tục phát triển ở nhiều địa phương đặc biệt là Cao bằng, Bắc 16 https://tailieu.top/
sơn, Võ nhai.Báo chí của Đảng và mặt trận như tờ Giải phóng, Chặt xiềng cứu quốc, Hồn nước đã góp phần vào việc tuyên truyền đường lối, chính sách của đảng dấu tranh chống mọi thủ đoạn chính trị, lừa bịp văn hoá phản động của địch, khơi dạy tinh thần yêu nước đoàn kết đấu tranh, giác ngộ của quần chúng tham gia cách mạng.Như vậy Mặt trận Việt Minh có vai trò to lớn trong việcchuẩn bị lực lượngchính trị cho cách mạng Tháng tám 1945. 2.2 Xây dựng lực lượng vũ trang. Cùng với việc xây dựng lực lượngchính trị, công tác xây dựng lực lượng vũ trang được đảng ta hết sức quan tâm. Lực lượngvũ tang là đội quân xung kích, giữ một vị trí vai trò hết sức quan trọng trong mọi cuộc cách mạng vì vậy ngay từ rất sớm Đảng ta đãquan tâm đến vấn đề xây dựng lực lượngvũ trang cách mạng. Trong cuộc khởi nghĩa Bắc sơn đã hình thành đội du kích Bắc sơn, vì vậy theo chủtrương của đảng một bộ phậnlực lượng vũ trang k/n được xây dựng thành các đội du kích hoạt động ở Bắc sơn, đại hội lần thứ VII của BCHTƯĐ đã quyết định bồi dưỡng đội du kích Bắc sơn để làm vốn quân sự đầu tiên. Bước sang năm 1941 những đội du kích này thống nhất thành trung đội cứu quốc quân đã hoạt động chiến tranh du kích trong suốt 8 tháng ở rừng núi Bắc sơn.Người cho thành lập một đội tự vệ chiến đấu ở Cao Bằng. Đội tự vệ này làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ địa cho người hoạt động. Đồng thời luyện các đội tự vệ, các đội du kích ở các địa phương khác. Người viết nhiều bài về chiến thuật đánh du kích nhằm hướng dẫn các lực lượng vũ trang hoạt động Thực hiện nghị quyết của TƯĐ ngày 14/2/1941 đội du kích Bắc sơn được thành lập tại khu rừng Khuổi Nọi xã Vũ Lễ Châu Bắc sơn gồm 32 chiến sĩ, thay mặt cho TƯĐ đồng chí Hoàng Văn Thụ đã trao nhiệm vụ và lá cờ đỏ sao vàng cho đội, sau đại hội TƯĐ 8 đội du kích Bắc sơn đổi tên là Cứu quốc quân cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước lúc bấy giờ, đây chính là đội cứu quốc quân I. Cuối tháng 6/1941 thực dânPháp tập trung lực lượngnhằm càn quét khu căn cứ Bắc sơn Võ Nhai nhằm tiêu diệt đội du kích Bắc sơn, vì vậy đội cứu quốc quân đã chiến đấu anh dũng hoàn thnàh nhiệm vụ bảo về cơ quan đầu não của đảng ta. Tháng 7/1941 trong một trận phục kích của địch tại Ngân sơn( Bắc kạn) đội cứu quốc quân bị tổn thất nặng nề chỉ còn 4 đồng chí phá vây trở vềVõ Nhai, được sự giúp đỡ trực tiếp của TƯĐ ngày 15/9/1941 trung đội cứu quốc quân II ra đời tại Trường Xá Võ Nhai- Thái Nguyên gồm 47 đồng chí trong đó có 3 nữ. có chi bộ chỉ đạo và ra tờ báo Bắc sơn làm tài liệu, sang đầu năm 1944 vùng căn cứ địa Bắc sơn Võ nhai được mở rộng sang châu Sơn Dương- Tuyên Quang. Ngày 25/2/1944 đội cứu quốc quân III được thành lập tại châu Sơn dương Như vậy trên thực tếcác đội cứu quốc quân ra đời và hoạt động đã nêu cao tấm gương chói lọi về tinh thần chiến đấu bất khuất khắc phục khó khăn gian khổ của lực lượng cách mạng, đội quân này không ngừng lớn mạnh và phát triển. 22-12- 1944: Người ra chỉ thị cho thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời đề ra hình thức hoạt động cho hội là: Vũ trang tuyên truyền nghĩa 17 https://tailieu.top/
là có sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị và quân sự. Nhưng lúc đầu, chính trị phải trọng hơn quân sự. Trong ngày làm lễ ra mắt tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc huyện Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng. Người đã dạy rằng: “Đội là đội quân đàn anh của cảnước, đội có nhiệm vụđi khắp Bắc-Trung-Nam, vừa tuyên truyền, vừa đánh địch, vừa giúp đỡcác các đội quân đàn em ởcác địa phương hoạt động. Đồng thời vừa phát triển lực lượng của mình ngày càng lớn mạnh…”. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chính là tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Từkhi ra đời đến khi trưởng thành, đội luôn luôn nhận được sự quan tâm theo dõi, chăm sóc ân cần dạy dỗ của Người. Người đã dạy quân đội ta rằng: “Quân đội ta, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụnào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻthù nào cũng đánh thắng” Chính vì vậy ta đã khẳng định: Hồ Chủ Tịch là người cha thân yêu của lực lượng vũ trang. Các đội du kích khác Ngày 11/3/1945 tại ba tơ Quảng Ngãi các tù chính trị đã phối hợp với binh lĩnh giác ngộ nổi dậy chiếm đồn Ba tơ.Ngày 14/3/1945 đội du kích Batơ được thành lập, đây là hạtnhân của lực lượng vũ trang sau này.Tháng 5/1945 tại Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá đồng chí Văn Tiến Dũng cùng các đại diện xứ uỷ Bẳc-Trung kì và các bí thư tỉnh uỷ quyết định thành lập chiến khu Quang Trung. Ngày 20/5/1945 Trung đội du kích đầu tiên được thành lập tại đây. Ngày 8/6/1945 tại các tỉnh Đông Bắc Bộ dưới sự lãnh dạo của Đảng bộ địa phương nhân dân ở Đông Triều, Chí Linh, Mạo Khê nổi dậy tước vũ khí của giặc, đập tan chính quyền địch lập ra uỷ ban nhân dân cách mạng, lập chiến khu Đông Triều và tổ chức đội du kích chống Nhật. Còn ở Nam bộ ngay sau ngày 9/3/1945 các đội vũ trang cách mạng cũng lần lượt ra đời Bến tre, Mĩ tho, Sa đéc. Ban thường vụ TƯĐ triệu tập hội nghị quan sự cách mạng Bắc kì từ ngày 15- 20/4/1945 do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Hội nghị đã phân tích tình hình trong nước và quốctế nhận định tình thế cách mạng nên đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ khác. Vì vậy quyết định thống nhất các tổ chức vũ trang thành lập Việt Namgiải phóng quân. Ngày 15/5/1945 quyết định hợp nhất giữa Cứu quốc quân và VNTTGPQ lấy tên gọi là VNGPQ tại xã Định Biên Thượng Huyện Định Hoá Thái nguyên hội nghị đã cử ra uỷ ban quân sự các mạng Bắc kì. Tháng 7/1945 trường quân chính chống nhật được thành lậpvà đến ngày 5/8/1945 Báo quân giải phóng ra đời. * Vai trò của các lực lượngvũ trangvới cách mạng tháng Tám Cách mạng tháng Tám là một cuộc tổng khởi nghĩavũ trang của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, có sự kết hợp tài tình giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị. Trong thời kì tiền khởi nghĩa lực lượngvũ trang có vai trò quyết định trong việc phát triển chiến tranh du kích cục bộ ở nông thôn, sự hoạt động tác chiến của lực lượngvũ trang đã gây được thanh thế rất lớn cho cách mạng góp phần phát triển cơ sở cách mạng quần chúng. Lực lượng vũ trang tuy còn nhỏ bé về lực lượng thiếu thốn trang bị kĩ thuật nhưng đã góp phần rất quan trọng vào sự thắng lợi của cách mạng nước ta. 18 https://tailieu.top/
2.3 Bác Hồ có công lao to lớn trong việc xây dựng căn cứđịa cách mạng. Căn cứđịa có vị trí vai trò quân trọng đối với cách mạng: Là nơi cung cấp sức người sức của, nơi xuất phát đểđánh địchlà nơi rút lui để bảo toàn lực lượng. Vì vậy, “ căn cứđịa là nhân tốthường xuyên, quyết định thắng lợi của cách mạng”. Cho nên, khi vừa vềnước, Bác đã cho xây dựng căn cứđịa Pắc Bó (Cao Bằng ). Bác chọn nơi này vừa để tiện chỉđạo phong trào, vừa để liên hệ với các phong trào cách mạng thế giới. Từ Pắc Bó, căn cứđịa được mở rộng ra nhiều nơi khác thuộc tỉnh Cao Bằng-Bắc Cạn-Lạng Sơn. Đồng thời Người ra chỉ thị Nam tiến để mở rộng dần căn cứ xuống Bác Sơn-Võ nhai và các tỉnh miền xuôi. 6-1945, Bác cùng TƯ Đảng thành lập khu giải phóng Việt Bắc, khu giải phóng Việt Bắc gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và một số huyện của tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang. Trong khu giải phóng, Người cho thi hành 10 chính sách của Việt Minh.Vùng căn cứđịa thí nghiệm những chính sách ấy và rút kinh nghiệm trước khi đem ra áp dụng rộng rãi cảnước. Khu giải phóng là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Và 10 chính sách của mặt trận Việt Minh là đường lối đối nội, đối ngoại của nước ta sau cách mạng tháng 8-1945. 2.4/ Bác có công lao to lớn trong việc lãnh đạo tổng khởi nghĩa: Từ 13-15/8/1945 tại Tân Trào(Sơn Dương-Tuyên Quang), Người triệu tập hội nghị toàn quốc Đảng, Người phân tích tình hình và nhận định rằng: Lúc này thời cơ đã đến và quyết định tiến hành tổng khởi nghĩa và quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa trung ương Đảng. Vào đêm 13-8-1945 đã ban hành mệnh lệnh tổng khởi nghĩa và quân lệnh số 1. Tiếp đó, Người cùng tổng bộ Việt Minh đứng ra triệu tập Quốc dân đại hôi tại Tân Trào từ 16-17-8-1945. Tại Quốc dân đại hội, Bác đã tranh thủđược rất nhiều ý kiến của các đại biểu và đại hội đã tán thành chủtrương tổng khởi nghĩa của TƯ Đảng. Đại hội đã thông qua quốc kì, quốc ca, đặt tên nước…Đồng thời bổ sung thêm một số chính sách cần phải thi hành sau khi cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi và bầu ủy ban dân tộc giải phóng (tức chính phủ lâm thời). Bác đảm nhận trọng trách làm chủ tịch ủy ban dân tộc giải phóng trung ương. Và sau khi cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi thì chính phủ này với tư cách là chủnhân đểđón tiếp quân đồng minh vào nước ta. Đại hội đã thông qua mệnh lệnh tổng khởi nghĩa và quân lệnh số1. Bác đã đánh giá về thời cơ có một không hai này. Vì vậy, Người đã dạy: “Đây là thời cơ nghìn năm có một cho dân tộc ta vùng dậy, lần này dù có phải đốt cháy dạy Trường Sơn cung quyết định giành độc lập cho đất nước…”. Quyết tâm đó của Người đã biến thành quyết tâm của toàn Đảng toàn dân ta. Nghe theo lời dạy của Người, cả 19 https://tailieu.top/
dân tộc ta triệu người như một đã dứng lên tiến hành tổng khởi nghĩa. Chỉ sau 15 ngày từ 14-28/8/1945 đã đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn. Ngày 2-9-1945, Người thay mặt cho chính phủ lâm thời và thay mặt cho toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Với tất cả các sự kiện trên đây đã chứng tỏ rằng Bác là Người có công lao to lớn đối với sự thành công của Cách mạng tháng 8-1945. Từ việc hoàn chỉnh về chủ trương, chuyển hướng chỉđạo chiến lược cho đến việc lãnh đạo quần chúng xây dựng các lực lượng cách mạng đồng thời Người đã theo dõi sát sao tình hình trong nước và tình hình thế giới để chớp lấy thời cơ giành chính quyền. Cho nên sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam sẽ gắn liền với tên tuổi của Người mãi mãi. 20 https://tailieu.top/
3. Bản Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 với các văn kiện quan trọng của giai cấp tư sản từ thế kỉ XVIII-XIX 3.1/ Bản “tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ”. Bản tuyên ngôn do Tô Mát Giéc Phéc Xơn (1743-1826) soạn thảo có sựđóng góp của PhơRăng –CơLin. Bản tuyên ngôn được thông qua 4-7-1776 tại Philađenphia trong thời gian cuộc chiến tranh giành độc lập của nước Mỹđang diễn ra. + Chỉ trích tội ác của thực dân Anh + Tuyên bố nền độc lập 21 https://tailieu.top/
+ Đề ra nguyên tắc sống của giai cấp tư sản trong thời đại mới: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đảng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Quyền tựdo: đó chính là quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và chống áp bức, quyền tựdo kinh doanh, tư hữu tài sản… Quyền bình đẳng: đó là những bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt sự giàu nghèo, sang hay hèn…Nhưng không bao gồm nô lệda đen Tuyên ngôn xác nhận nhân dân là gốc của chính quyền, nhân dân thành lập chính phủ, quyền lực của chính phủ làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc phế truất chính phủđể lập chính phủ mới. Bản tuyên ngôn cũng khẳng định quyền lực của giai cấp tư sản của người da trắng không xóa bỏ chếđộ nô lệ và duy trì việc bóc lột công nhân làm thuê… Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳđược công bốđã tác động tích cực động viên nhân dân tham gia cuộc chiến tranh giành độc lập, đồng thời ảnh hưởng tới bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Bản tuyên ngôn là bộ luật quan trọng trong lịch sử pháp chế của nhân loại, nó có ý nghĩa quan trọng cổvũ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của nhân dân thuộc địa trong đó có Việt Nam. 3.2 Bản “tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của nước Pháp Bản tuyên ngôn do Xiâyet (1784-1836) khởi thảo dưới sựgiúp đỡ của Giec-Phec- Xơn.Tuyên ngôn được quốc hội lập hiến thông qua ngày 26-8-1789. Bản tuyên ngôn đã đề cập tới vấn đềcơ bản: + Xác lập quyền tự do cá nhân của công dân. + Xác lập quyền bình đẳng giữa các công dân. + Tựdo và bình đẳng là cơ sở của tình bác ái: tư tưởng thựdo, bình đẳng bác ái của cách mạng Pháp được thể hiện trên lá cờ Pháp. Bản tuyên ngôn còn tuyên bố quyền tư hữu tài sản là quyền thiêng liêng bát khả xâm phạm. Như vậy bản tuyên ngôn đã biểu hiện tư tưởng tiến bộđề cao nhân quyền, quyền công dân, quyền tự do dân chủ. Nhưng còn mặt hạn chếđó là tiếp tục duy trì chếđộ bóc lột, không giải phóng hoàn toàn người lao động khỏi ách áp bức giai cấp… Nhưng bản tuyên ngôn còn có một ý nghĩa quan trọng đó là một văn kiện hết sức tiến bộ lúc bấy giờ và có những điều khoản còn có giá trịcho đến ngày hôm nay. Đặc biệt trong việc xây dựng một nền dân chủ thực sự. 22 https://tailieu.top/
3.3 Mối quan hệ giữa các văn kiện đó với tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945 Sử học Việt Nam hiện nay coi là Việt Nam có cả thảy 3 bản tuyên ngôn độc lập: 1.Bài thơ Nam quốc sơn hà: là tác phẩm được sử dụng trong kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (Lê Hoàn) và lần thứ 2 (Lý Thường Kiệt) nhằm mục đích khẳng định chủ quyền dân tộc, khích lệ ba quân tướng sĩ và uy hiếp tinh thần giặc Tống. 2.Bình Ngô đại cáo: Nguyễn Trãiviết Bình Ngô đại cáothay lời Bình Định vương Lê Lợinăm Đinh Mùi (1427), tuyên bố bình định giặc Minh, giành lại độc lập cho dân tộc. 3. Bản tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minhviết, sau đó đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên bố Việt Nam độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn này gồm 3 phần : Phần 1: Cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn. Phần 2: Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn. Phần 3: Lời tuyên bố độc lập. Ngày 27 tháng 8, trong cuộc họp của Ủy ban Dân tộc Giải phóng, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên tiếp trong hai ngày 28 và 29 tháng 8, Hồ Chủ tịch dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 30 tháng 8, Người mời một số đồng chí ở Trung ương Đảng đến trao đổi, góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập. Sau khi đọc bản thảo cho mọi người nghe và hỏi ý kiến, Người nói, trong đời, Người đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ, mới viết được một văn bản cực kỳ quan trọng là bản Tuyên ngôn độc lậpcho nước nhà. Ngày 31 tháng 8, Hồ Chủ Tịch bổ sung một số điểm vào bản thảo Tuyên ngôn độc lập, đồng thời, hỏi Ban tổ chức về tình hình cụ thể của việc chuẩn bị ngày Lễ Độc lập sẽ diễn ra tại quảng trường Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 23 https://tailieu.top/
Lễ tuyên ngôn độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại quảng trường Ba Đình Đượcviết 2 tháng 9 năm 1945 Thông qua 2 tháng 9 năm 1945 NơilưugiữCục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước Tác giả Hồ Chí Minh Chữ kí Mụcđích Khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) 24 https://tailieu.top/
Nội dung cơ bản của tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945. Bản tuyên ngôn độc lập đã nêu lên quyền thiêng liêng không ai có quyên xâm phạm được: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đảng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. (Lời nói bất hủ trong bản tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp được công bốnăm 1791) cũng nói: “…Người ta sinh ra tựdo và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tựdo và bình đẳng về quyền lợi..”. Từđó suy rộng ra, các dân tộc sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Vì vậy, Việt Nam mặc dù là một dân tộc nhỏbé nhưng cũng có quyền sống, quyền bình đẳng với các dân tộc trên toàn cầu mà không một kẻ thù nào có quyền tước đi quyền sống, quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Thế mà chính những kẻđề ra chân lí tự do, bình đẳng, bác ái lại đem quân đến xâm lược nước ta. Vì vậy, hành động của chúng trái với chính nghĩa, trái với nhân đạo. Cho nên, ta có quyên bảo vệ, quyền sống, quyền bình đẳng của mình. Bản tuyên ngôn độc lập 2-9-1945 đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Bản tuyên ngôn viết: “…Thếmà hơn 80 năm nay, thực dân pháp đem quân đến xâm lược nước ta, áp bức dân tộc ta. Chúng bắt nhân dân ta phải đóng sưu cao thuế nặng, phải đi phu, đi lính. Chúng dùng chính sách chia để trị làm cho dân tộc ta yếu hèn, chúng tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân. Chúng dùng chính sách nhu dân để kìm hãm nhân dân ta trong vòng ngu dốt, giúp chúng dễ bề thống trị. Chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng dùng rượu, thuốc phiện để làm cho nòi giống ta suy nhược. Chúng nói là bảo hộ cho chúng ta, nhưng thực chất khi Nhật đến, chúng chẳng những không bảo hộ mà ngược lại đã 2 lần quỳ gối dâng Đông Dương cho Nhật…”. Bản tuyên ngôn cũng khẳng định chủ quyền của nước ta. Tuyên ngôn viết: Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại cũng thoái vị…Một dân tộc đã gan góc chống đế quốc thực dân mấy chục năm nay và cũng đã anh dũng đứng vềphe đồng minh chống phát xít, vì vậy dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập…Vì những lẽđó, chúng tôi thay mặt chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tựdo, độc lập và sự thật đã thành một nước tựdo độc lập. Như vậy bản tuyên ngôn đã khẳng định cả2 phương diện cả về pháp lí và thực tế chủ quyền của đất nước ta. Tuyên ngôn cũng khẳng định lòng quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc, chủ quyền đất nước. Bản tuyên ngôn viết:”…Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tựdo và độc lập ấy…”. 25 https://tailieu.top/
Qua những hình thức so sánh học sinh rút ra những điểm quan trọng của bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp với bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Bác soạn thảo và tuyên bố ngày 2-9-1945, từđó học sinh thấy được văn bản tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 là một áng văn bất hủ, là một văn kiện vô giá vì nó đã tổng kết được tất cả những thành tựu đấu tranh của nhân dân ta trong ngót trăm năm chống thực dân Pháp, năm năm chống phát xít Nhật và hàng nghìn năm chống chếđộ phong kiến. Đồng thời đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Kết quả cụ thểtrước khi áp dụng đề tài Lớp- sĩ số Loại Giỏi Loại Khá Loại T.B Loại Yếu (Tỉ lệ %) (Tỉ lệ %) (Tỉ lệ %) (Tỉ lệ %) 12A-30 6= 20,0% 14= 46,7% 10= 33,3% 12B-33 7= 21,2% 15= 45,5% 11=33,3% 12C-29 3=10,4% 15= 51,7% 11=37,9% 12D-30 3= 10% 10= 33,3% 17=56,7% Kết quả cụ thể sau khi áp dụng đề tài Lớp- sĩ số Loại Giỏi Loại Khá Loại T.B Loại Yếu (Tỉ lệ %) (Tỉ lệ %) (Tỉ lệ %) (Tỉ lệ %) 12A-30 8=26,7% 18=60% 4=13,3% 12B-33 10=30,3% 17=51,5% 6=18,2% 12C-29 6=20,7% 18=62,1% 5=17,3% 12D-30 10=33,3% 17=56,7% 3=10% Qua áp dụng đề tài tôi nhận thấy sự phân hóa giữa các học sinh rong quá trình lĩnh hội tri thức như sau: 26 https://tailieu.top/
-Học sinh khá- giỏi nắm vững kiến thức cơ bản, vận dụng sáng tạo những kiến thức đó, ghi nhớ tốt các sự kiện lịch sử. -Học sinh trung bình nắm được kiến thức cơ bản, ghi nhớđược sự kiện chính, những mốc lịch sử quan trọng. 27 https://tailieu.top/
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Qua những hình thức tôi đã thực hiện cho học sinh tìm hiểu thêm về bộ môn lịch sử chỉ là những ý kiến nhỏ của bản thân nhằm mục đích trao đổi cùng các ban đồng nghiệp để cùng tìm ra nhiều cách giáo dục cho học sinh để học sinh có thể yêu bộ môn này. Đây là những hình thức vừa học vừa chơi nhưng tôi cũng chấm điểm, nhận xét để học sinh có trách nhiệm, tinh thần cùng tham gia đặc biệt về Bác Hồ trong chương trình học ở phổ thông trung hoc các em được học rất ít mà cũng chỉ có ở lớp 12, vì vậy tổ chức theo kiểu này các em ở tất cả các khối lớp đều có cơ hội được tham gia đủ số lượng, mà còn chú ý đến chất lượng bài thi. Muốn có được kết quả cao thì học sinh phải thông các phương tiện thông tin đại chúng để tìm hiểu thêm.Cách mạng tháng Tám thành công với kết quả nhân dân đã giành được chính quyền từ tay phong kiến thực dân là kết quả của bao nhiêu xương máu, tính mệnh, biết bao nhiêu năm đau thương của nhân dân trong cảnh nô lệ lầm than. Đây cũng đỉnh cao hoạt động của Nguyễn Ái Quốc –Hồ Chí Minh trong suốt thời gian Người ra đi tìm đường cứu nước. Đối với cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đóng vai trò to lớn. Người đã tìm đường cứu nước, mở ra lối đi đúng đắn, sáng suốt và phù hợp với thực tiến hoàn cảnh nước ta. Và cũng chính Người đã dày công chăm lo, vun đắp cho cách mạng. Người chuẩn bị về nhiều mặt từ tư tưởng đến tổ chức, từ mối đoàn kết toàn dân đến đoàn kết quốc tế, chuẩn bị từ lực lượng chính trị đến lực lượng võ trang, đến căn cứ địa; chuẩn bị cho cả tương lai của đất nước từ nhiệm vụ trước mắt cũng như định hướng lâu dài.Giai đoạn từ 1911 đến tháng 8 năm 1945 là những mốc son đẹp nhất của Nguyễn Ái Quốc –Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Thực tế, công lao của Bác thì không bao giờ kể được hết cho nên tôi cũng chỉ cho học sinh tìm hiểu về Bác ở giai đoạn lịch sử khá ngắn và sơ lược như vậy thôi và mỗi năm sẽ tổ chức cho các em tìm hiểu ở một khía cạnh khác nhau, bản thân tôi mong muốn có được những ý kiến cùng trao đổi đóng gópvới đồng nghiệpđể sự nghiệp trồng người ngày càng có hiệu quả hơn. Hòa bình, ngày 15 tháng 05 năm 2013 Người viết Đoàn Thị Thảo 28 https://tailieu.top/
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………….. ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH SỞ GD&ĐT …………………………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………. 29 https://tailieu.top/