1 / 35

Biện pháp rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh Lớp 5A1

Ku0129 nu0103ng su1eed du1ee5ng ngu00f4n ngu1eef: Ngu00f4n ngu1eef lu00e0 phu01b0u01a1ng tiu1ec7n giao tiu1ebfp quan tru1ecdng nhu1ea5t cu1ee7a xu00e3 hu1ed9i lou00e0i ngu01b0u1eddi. Ngu00f4n ngu1eef tu1ed3n tu1ea1i du01b0u1edbi hai du1ea1ng: nu00f3i vu00e0 viu1ebft. Cu00f9ng diu1ec5n u0111u1ea1t mu1ed9t nu1ed9i dung nu00e0o u0111u00f3 bu1eb1ng phu01b0u01a1ng tiu1ec7n ngu00f4n ngu1eef, cu00f3 thu1ec3 su1eed du1ee5ng du1ea1ng nu00f3i hou1eb7c du1ea1ng viu1ebft tu00f9y theo yu00eau cu1ea7u, mu1ee5c u0111u00edch, u0111u1ed1i tu01b0u1ee3ng, u0111iu1ec1u kiu1ec7n, hou00e0n cu1ea3nh giao tiu1ebfp.

Download Presentation

Biện pháp rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh Lớp 5A1

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. I. PHẦN MỞĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cùng diễn đạt một nội dung nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ, có thể sử dụng dạng nói hoặc dạng viết tùy theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp. Việc rèn luyện kĩ năng nói rất có ích đối với sự phát triển và trưởng thành của học sinh, đồng thời giúp học sinh phát triển sự nhận thức về thế giới xung quanh. Cha mẹ và thầy cô giáo có nhiệm vụ giúp đỡ trẻ rèn luyện kĩ năng nói tự tin và hiệu quả. Họ cần dạy học sinh nói rõràng thuyết phục và tự tin. Việc rèn luyện kĩ năng nói giúp học sinh trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống cũng như nhiều nghề nghiệp trong tương lai.Quá trình tư duy của trẻ thay đổi kéo theo việc học ngôn ngữ cũng thay đổi. Lúc này, trường Tiểu học trở thành môi trường giáo dục tốt nhất hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của tiếng mẹ đẻ, mở mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách. Quan điểm dạy học theo xu thế hiện nay là dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Ứng với quan điểm này đã có một hệ thống các phương pháp dạy học cụ thể, có thể gọi là các phương pháp dạy học tích cực theo mô hình trường học mới. Mỗi phương pháp dạy học tích cực lại có một hệ thống biện pháp, thao tác đặc trưng (có thể gọi là hệ thống kĩ thuật) để thực hiện. Quy trình của một tiết dạy học (các bước lên lớp) phản ánh ý tưởng của phương pháp dạy học đã được lựa chọn. Lựa chọn phương pháp dạy học nào, phối hợp các phương pháp dạy học nào đối với mỗi bài học cần dựa vào đặc điểm, yêu cầu của mỗi kiểu bài học, năng lực học sinh trong lớp và điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể của từng trường, từng địa phương để áp dụng phương pháp dạy học. 1 https://dethitiengviet.com/

  2. Để đạt được mục tiêu trên trong chương trình Tiểu học, như ta đã biếtmôn Tiếng Việt chiếm vị trí rất quan trọng. Tiếng Việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các bộ môn khác. Đặc biệt môn Tiếng Việt lớp 5 và cụ thể là môn Tập làm văn nói. Thực tế dạy học hiện nay cho thấy kỹ năng nói của học sinh đang ngày bị xem nhẹ và hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là kiểm tra viết và giáo viên chỉ tập trung vào các kỹ năng: đọc, viết, tính toán trong nhà trường là việc có thật. Việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong phân môn Tập làm văn lớp 5 hiện nay chưa làm nổi bật các đặc thù là rèn kỹ năng nói cho học sinh mà chủ yếu mới chỉ tập trung vào lập dàn bài để phục vụ cho giờ văn viết. Do đó, việc rèn luyện kỹ năng nói lưu loát trong cách diễnđạt cho học sinh là việc làm cần thiếtcủa người giáo viên ở trên lớp, đây là cả một quá trình đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực, cố gắng, tìm hiểu và quan tâm đến từng đối tượng học sinh ở tronglớp để có thể có những biện pháp giúp đỡ các em có điều kiệnluyện tập tùy theo cách nhìn nhận vấn đề của từng học sinh. Do đó việc cải tiến, đổi mới về phương pháp luyện nói cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng là vấn đề cần quan tâm, bởi vì khả năng diễn đạt vấn đề của học sinh hiện nay hầuhết còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục. Bởi vậy làm thế nào để dạy tốt là vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Từ thực trạng việc diễn đạt vấn đề của học sinh lớp 5, trường Tiểu học Lê Quý Đôn hiện nay. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi thiết nghĩ cần phải cải tiến và đổi mới về thực trạng hiện nay để nâng cao khảnăng diễn đạt, khảnăng giao tiếp và nhận biết vấn đề của học sinh. Vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến:“Một số biện pháp rèn kỹnăng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh lớp 5A1 Trường Tiểu học Lê Quý Đôn”. Tôi mong rằng đề tài nghiên cứu của tôi sẽgiúp các đồng nghiệp khác thực hiện nhiệm vụ của mình để công tác giáo dục ngày càng đạt được hiệu quảcao hơn. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2 https://dethitiengviet.com/

  3. Mục tiêu của giáo dục là coi giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nền tảng, là động lực của sự nghiệp Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Phát huy động lực con người phát triển toàn diện là yếu tố cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền vững trong mọi lĩnh vực. Trọng tâm là việc chú trọng đến con người được đào tạo có đầy đủ năng lực, trí tuệ, có đạo đức, thích nghi được với những thay đổi. Để đáp ứng như cầu của xã hội là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện thì việc dạy họcở trường Tiểu học chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì bậc Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân, do đó đòi hỏi phải dạy đúng, dạy đủ các môn học theo quy định nhằm giúp các em có thêm kiến thức sâu rộng để có thể tiếp cận được với nền khoa học tiên tiến hiện nay là “Nâng caodân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí rất đặc biệt và mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau cực kỳ quan trọng. nó chiếm thời lượng nhiều hơn cả so với các môn học khác. Phương tiện chủ yếu của môn Tiếng Việt là ngôn ngữ, là công cụ không thểthiếu để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và là phương tiện để học sinh có thể tiếp cận và học tốt được các môn học khác. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát triển. Môn Tiếng Việt còn giúp cho các em cảm nhận, khám phá ra những nét đẹp tâm hồn, sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Môn Tiếng Việt là cơ sở, là chỗ dựa cho học tốt các môn học khác.Vì muốn học môn nào cũng cần sử dụng kỹ năng nói, đọc, viết mà mônTiếng Việt là môn bước đầu hình thành kỹ năng này. Trong Tiếng Việt thì phân môn: Tập làm văn lại là môn tổng hợp các kỹ năngvà kiến thức của các phân môn: Luyện từ và câu, Chính tả, kể chuyện. Vì thế, bậc Tiểu học cần rèn luyện cho các em có kỹ năng họctốt phân môn Tập làm vănđể giúp các em nắm bắt được cái hay, cái đẹp, biết cảm thụ văn học và có tình yêu quê hương, đất nước và con người. 3 https://dethitiengviet.com/

  4. Qua ngôn ngữ nói ta dễ nhận thấy trí tuệ, tâm hồn của người nói bởi lời nói luôn mang phong cách riêng của mỗi người. Trong lời nói cần thể hiện tư duy, nếu tư duy tốt lời nói sẽ dễ dàng, gọn gàng, hấp dẫn được người nghe, ngược lại nếu nói ấp úng, không rõ ràng sẽ không thuyết phục được người nghe và đôi khi còn hiểu sai ý mình muốn nói. Vì thế mục đích của giao tiếp sẽ khó được thực hiện hoàn chỉnh. Để có những lời nói đẹp mỗi người cần phải rèn luyện trong một quá trình lâu dài. Những giờ Tập làm văn chính là giờ học hình thành cho học sinh những kỹ năng nói đầu tiên, ở lứa tuổi này các em đã có một sự thay đổi đáng kể đặc điểm tâm sinh lý. Các em đã tự thay đổi trong quá trình nhận thức, việc sử dụng các công cụ trực quan đã giảm bớt so với ở các lớp học trước và thay vào đó là học sinh có thể dùng lời đểchứng minh một vấn đề. Vì vậy, theo mô hình dạy học hiện nay, cần phải rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt mỗi vấn đề cụ thể một cách rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy giờ Tập làm văn còn rèn cho học sinh kỹ năng nói, dạy các em biết tổng hợp kiến thức từ các phân môn như: Luyện từ và câu, Tập đọc và các kinh nghiệm cuộc sống mà học sinh có được. Cùng một vấn đề nhưng không phải học sinh nào cũng nói như nhau, do đó giáo viên phải luôn quan tâm tới đặc điểm riêng của từng học sinh để rèn luyện kỹ năng nói cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. 3. Đối tượng nghiên cứu. Một số biện pháp rèn kỹnăng nói trong giờ Tập làm văn cho học sinh lớp 5A1 Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đak lak, năm học 2018 – 2019. vi nghiên cứu. - Nhằm đi sâu vào một vấn đề nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài luyện nói cho học sinh lớp 5A1 TrườngTiểu học Lê Quý Đônvới phạm vi nghiên cứu hẹp như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả, góp phần thực hiệnnhiệm vụ giáo dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới; thực hiện các dự án mô hình trường học mới tại Việt Nam. 4 https://dethitiengviet.com/

  5. - Thời gian từđầu tháng 9 năm 2018đến tháng 5 năm 2019. 5. Phương pháp nghiên cứu - Để thực hiện giải pháp trong việc nâng cao kỹ năng trình bày bằng lời nói trong giờ Tập làm văn ở lớp 5, bản thân tôi có dự kiến ban đầu về công việc cần làm như sau: - Thực hiện kết hợp gia đình với nhà trường, tuyên truyền vận động để tất cả các phụ huynh đều thấu hiểu về tầm quan trọng của môn Tiếng Việt lớp 5. - Giáo viên nghiên cứu tài liệu, đổi mới nội dung phương pháp dạy họcđể rèn luyện kỹ năng lời nói trong phân môn Tập làm văn lớp 5. - Tìm hiểu thực tế: Tìm hiểu thực trạng dạy của giáo viên và học của học sinh - Thường xuyên kiểm trađánh giá học sinh, giúp đỡ đến từng học sinh để các em trong lớp đều có thể có kỹ năng giao tiếp thông qua việcrèn luyện kĩ năng nói. - Thực hiện tốt việc luyện đọc đốivới học sinh thông qua các giờ Tập làm văn, thông qua các văn bản đã học giúp học sinh có khả năng trình bày văn bản bằng lời nói. - Tìm hiểu cụ thể thực trạng ban đầu về chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh trong trường đặc biệt là chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh lớp 5. - Bản thân đã thựchiện nghiên cứu từ năm học 2018 – 2019 kết hợp thêm các phương pháp sau: * Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. * Dạy học thực nghiệm ở lớp 5A1 * Tổng kết phân tích đối chứng. * Tổng hợp kinh nghiệm. * Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau đây: 5 https://dethitiengviet.com/

  6. + Phương pháp khảo sát, quan sát. + Phương pháp thu thập tài liệu. + Phương pháp phân tích. + Phương pháp tổng hợp. + Phương pháp thực nghiệm. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Miêu tả là dùng ngôn ngữ (hay một phương tiện nghệ thuật khác) làm cho người nghe (người đọc, người xem) có thể thấy sự vật, hiện tượng, con người như đang hiện ra trước mắt. Văn miêu tảgiúp người đọc hình dung một cách cụ thể hình ảnh của sự vật thông qua những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc thể hiện cảm xúc thẩm mỹ của người viết, sinh động và tạo ngôn ngữ miêu tả giàu hình ảnh. - Miêu tả: Theo Từđiển Tiếng việt – NXB KHXH, Hà Nội, 1997 có nghĩa là:“ Thể hiện sự vật bằng lời hay nét vẽ”. Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từđiển, “ Miêu tả“ là:“Lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra.” Trong văn học, nhà văn không chỉ miêu tảđơn thuần mà bằng sự tinh tế nhạy cảm của mình, bằng ngôn ngữsinh động khắc họa lên sự vật đó khiến người đọc người nghe cảm thấy mình đang đứng trước sự vật, hiện tượng đó và cảm thấy như nghe thấy, sờđược những gì mà nhà văn nói đến.Mỗi đề bài Tập làm văn đều xác định một nhiệm vụ giao tiếp. Việc định hướng trong giao tiếp sẽ thực hiện dưới dạng tìm hiểu đềbài, xác định tư tưởng cơ bản của bài viết. Ứng với giai đoạn lập chương trình là kĩ năng lập ý tìm ý, xây dựng dàn ý. Việc làm này sẽ giúp học sinh trình bày bài đầy đủ, mạch lạc. Khi lập dàn ý phải xác định được ý chủđạo và sắp xếp ý theo trình tự nhất định. 6 https://dethitiengviet.com/

  7. Ứng với giai đoạn hiện thực hóa chương trình là kĩ năng nói (viết) thành bài, nó bao gồm các kĩ năng bộ phận như dùng từ, đặt câu, viết đoạn, viết bài. Ứng với giai đoạn kiểm tra kết quảlà nhóm kĩ năng phát hiện lỗi và kĩ năng sửa lỗi. Vì vậy kĩ năng Tập làm văn được chia thành kĩ năng nói và kĩ năng viết. Kĩ năng nói được hình thành trước kĩ năng viết nhờ giao tiếp tự nhiên. Lời nói miệng có hai dạng: hội thoại và độc thoại. Vì vậy, các bài tập luyện nói trong giờ Tập làm văn sẽđược chia ra: nói trong hội thoại và độc thoại. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận. Đất nước ta ngày càng phát triển, đổi mới, việc đào tạo một lớp người mới biết sử dụng thành thạo ngôn ngữ diễn đạt một cách mới mẻ sáng tạo tư duy là vô cùng cần thiết. Cũngbởi Tiếng Việt là ngôn ngữ, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội hiện nay. Do vậy Tiếng Việt được đưa vào dạy học trong tất cả các cấp học với lượng kiến thức và thời gian nhiều. Môn Tiếng Việt là một trong những môn học trong trường Tiểu học phải được thực hiện theo nguyên tắc dạy và học. Nguyên tắc dạy học Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học cần dựa trên cơ sở những quy luật và nguyên tắc để đề ra những phương pháp dạy học cũng như cách tổ chức quá trình dạy học cụ thể hơn, khoa học hơn. Khắc phục lối truyền thụ mộtchiều, rèn luyện nề nết tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học. Do vậy rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh của mỗi giáo viên Tiểu học cần phải được chú trọng và quan tâm. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. Sách giáo khoa hướng dẫn học môn Tiếng Việt hiện nay tạo ra nhiều cơ hội cho học sinh luyện nói. Ngay từ những bài học đầu tiên củalớp 1, học sinh đã được luyện nói theo chủ đề. Những chủ đề luyện nói cuối mỗi bài học nếu thực hiện tốt sẽ vừa giúp học sinh ôn tập, vừa tạo không khí học tập thoải mái, 7 https://dethitiengviet.com/

  8. thân thiện, vừa góp phần rèn kĩ năng nói theo chủ đề cho học sinh. Các bài Luyện tập tổng hợp, các tiết Kể chuyện ở học kì II lớp 5 và nội dung các bài học của phân môn Kể chuyện, Tập làm văn, Tập đọc, Luyện từ và câu... ở các lớp 2, 3, 4, 5 đã từng bước rèn luyện và phát triển kỹ năng nói cho học sinh Tiểu học. Bên cạnh những ưu điểm đạt được kể trên, thực tế dạy học ở trường Tiểu học còn cho thấy việc dạy học kĩ năng nói cho học sinh lớp 5 còn bộc lộ những hạn chế cần được khắc phục, đó là : - Giáo viên chưa chủ động trong việc xác định trọng tâm của giờ học cũng như chưa linh hoạt trong việc tập trung vào những kĩ năng còn yếu của học sinh lớp mình. - Giáo viên cũng chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói hiệu quả. Giáo viên chưa có biện pháp kiểm soát kết quả học sinh luyện nói theo nhóm khiến việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả. - Một lí do khiến học sinh Tiểu học lúng túng khi nói chính là các em còn hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học. - Đối với loại bài học kể lại hoạt động hay câu chuyện đã tham gia hoặc đã chứng kiến theo các chủ điểm và bài thuyết trình, tranh luận, giáo viên chưa có biện pháp hữuhiệu để giúp các em rèn luyện một cách có hiệu quả. Các yêu cầu của môn Tiếng Việt lớp 5 đối với học sinh vùng thành phố, thị xã thì việc thực hiện dễ dàng. Song đối với học sinh lớp 5A1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn cần phải thực hiện thường xuyên, nhiệt tình để nâng cao chất lượng học tập tốt hơn. Ở đơn vị trường Tiểu học Lê Quý Đôn, tỷ lệ học sinh đạt chất lượng cao ở môn Tiếng Việt nói chung và khả năng trình bày bằng lời nói của học sinh nhìn chung còn chưa đồng đều ở các khối, lớp. 8 https://dethitiengviet.com/

  9. Nhìn chung chất lượng các môn học đối với lớp do tôi chủ nhiệm khá đồng đều, nhưng riêng môn Tập làm văn của các em kết quả còn hạn chế, đó là khả năng trình bày bằng lời nói còn nhiều hạn chế, ngữ điệu trong khi trình bày chưa thể hiện được theo nội dung của văn bản. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, nhà trường còn gặp không ít khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng chung. Do đây là vùng tương đối thuận lợi nhưng các em sử dụng tiếng địa phương quá nhiều nên khi các em diễn đạt bằng lời nói hoặc bài viếtchưa đa da dạng trong cách dùng từ, đặt câu. Bên cạnh đó một số em gia đình có hoàn cảnh khó khăn bố mẹ đi làm ăn xa nên chưa thực sự quan tâm đến các em nên phần nào ảnh hưởng đến kết quả học tập. Thực tế trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi đã khảo sát trực tiếp lớp 5A1.Trong năm học 2018 – 2019 và khi học sinh trình bày bằng lời nói thông qua bài văn tả cảnh, kết quả thu được như sau : KẾT QUẢ Trình bày còn lúng túng Trình bày lưu loát Trình bày chưa lưu loát HS tham gia khảo sát Tổng số học sinh TS % TS % TS % 29 29 6 20,7 8 27,6 15 51,7 Việc học sinh còn lúng túng trong khi diễn đạt văn bản bằng lời nói làm cho việc tiếp cận các kiến thức khoa học kỹ thuật càng trở nên khó khăn hơn, làm cho các em mất lòng tin khi bước vào cuộc sống sau này. Nhìn bảng thống kê kết quả khảo sát việc diễn đạt bằng lời nói của học sinh ở trên, chúng ta có thể thấy việc đọc hiểu và trình bày lưu loát văn bản bằng lời nói làm cho người nghe có hứng thú khi nghe của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ học sinh còn lúng túng khi trình bày bài tập còn khá cao. Mà những học sinh này do vốn Tiếng Việt còn hạn chế, cho nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của các môn học khác. 9 https://dethitiengviet.com/

  10. Nhận thức được rõ điều đó và trước thực trạng học môn luyện nói thông qua phân môn Tập làm văn chương trình Tiểu học mới của học sinh lớp 5 tôi đã tìm ra các biện pháp để nâng cao chất lượng trình bày bằng lời nói môn Tiếng Việt lớp 5 như sau: * Về ưu điểm: Chương trình sách giáo khoa cũng chú ý rèn kĩ năng viết văn tả cảnh cho học sinh trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản đó là: - Kĩ năng định hướng văn bản ( nhận diện văn bản tả cảnh, phân tích đề bài văn tả cảnh). - Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý. - Kĩ năng xây dựng đoạn văn tả cảnh, liên kết các đoạn văn thành bài văn tả cảnh. Đặc biệt kĩ năng xây dựng đoạn văn theo yêu cầu được chú trọng hơn cảnhư cách xây dựng đoạn mở bài ( theo 2 cách: trực tiếp hoặc gián tiếp) đoạn kết bài ( theo 2 cách: kết bài không mở rộng và kết bài mở rộng); các đoạn văn trong phần thân bài ( theo nhiều cách khác nhau tùy theo đối tượng miêu tả). Nội dung chương trình đã luyện tập các kĩ năng viết văn cho học sinh thông qua hệ thống các bài tập. Các bài tập trong sách giáo khoa khá phong phú và hấp dẫn học sinh cả về nội dung và hình thức. Các bài tập này thường được sắp xếp theo thứ tự từ dễđến khó. Một ưu điểm nổi bật đó là văn trong thể loại văn tả cảnh ở lớp 5 đa phần thuộc kiểu đề bài mở tạo điều kiện cho các em học sinh những khảnăng lựa chọn tùy theo ý thích của các em. Ví dụ: Tả cảnh một buổi sáng( trưa, chiều) trong vườn cây ( hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy). Đề bài tập làm văn tả cảnh thường đề cập đến những đề tài gắn bó với vốn sống, vốn hiểu biết của các em, gần gũi với các em. Ví dụ: + Tả quang cảnh trường em trước giờ vào học. + Tảngôi nhà gia đình em đang sống. 10 https://dethitiengviet.com/

  11. + Tả một cơn mưa. Nội dung dạy học văn tả cảnh trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 thể hiện rõ quan điểm tích hợp. Phần văn tả cảnh lớp 5 nói riêng và phân môn Tập làm văn nói chung có sự gắn bó chặt chẽ với chủđiểm của mỗi tuần học với các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Ví dụ: Gắn với chủđiểm “ Việt Nam – Tổ quốc em” học sinh được làm quen với bài văn tả cảnh “ Quang cảnh làng mạc ngày mùa” ( Tuần 1- TV5) Một số ngữ liệu dùng trong phân môn Luyện từ và Câu có tác dụng rất tốt đối với việc dạy văn tả cảnh. Ví dụ: Mẩu chuyện “ Bầu trời mùa thu” ( Luyện từ và câu tuần 9 – TV5) giúp học sinh mở rộng vốn từ, học tập cách dùng từ chỉ thiên nhiên trong bài văn tả cảnh. Giáo viên giảng dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học, lấy học sinh làm trung tâm, trong đó GV đóng vai trò người tổ chức hoạt động học của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển. Ban giám hiệu và các đoàn thểtrong và ngoài trường luôn phối hợp quan tâm đến chất lượng dạy và học . Bên cạnh những ưu điểm đó, qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học Lê Quý Đôn tôi nhận thấy một sốkhó khăn trong quá trình dạy tập làm văn miêu tảnhư sau: Đây là một môn học khó. Thực tế giảng dạy Tập làm văn Miêu tảlớp 5, bản thân người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi cũng cảm thấy lúng túng bí từ và không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế chỉ hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như là 11 https://dethitiengviet.com/

  12. văn mẫu lại chỉ có những bài văn đã viết sẵn mà không có sự hướng dẫn nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh. *Những hạn chế trong bài làm của học sinh: - Các lỗi phổ biến trong bài làm: Bài viết của học sinh thường mang tính liệt kê, kể lần lượt từng phần của cảnh không tảđược sựđặc sắc nổi bật của cảnh. Những bài viết thể hiện được nội dung cơ bản thì na ná giống nhau, các em thường vận dụng rập khuôn theo gợi ý của thầy cô hoặc văn mẫu, các em không biết miêu tả cảnh ở trong không gian và thời điểm khác nhau. Cách tảthường ước lệ chung chung, hời hợt khiến người đọc có cảm giác các em tả cảnh mà các em chưa từng quan sát. Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc và sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả khiến bài viết thiếu hình ảnh, khô khan, thiếu chân thực độc đáo. Sự vật mà các em miêu tảthường ở trạng thái tĩnh không sống động. Các em không nắm được trình tự miêu tả, sắp xếp ý lộn xộn, diễn đạt còn lặp ý, không biết cách liên kết đoạn văn chính vì vậy nội dung thiếu logic, thiếu chặt chẽ. Các em chưa biết sử dụng từ ngữ miêu tả vì vậy nội dung còn nghèo nàn, các em dùng từ thiếu chính xác không phù hợp với sắc thái biểu cảm. Học sinh thường viết câu không trọn ý hoặc quá dài dòng. * Một số lỗi cụ thểtrong bài văn tả cảnh của học sinh: - Dùng từ sai do không hiểu nghĩa của từ: Sân trường to cồng kềnh thỏa thích cho chúng em chơi. Học sinh đã dùng “to cồng kềnh” là không phù hợp. Sửa Thay cụm từ“to cồng kềnh” bằng “rộng thênh thang” * Học sinh dùng từ sai do không biết kết hợp: Ví dụcâu: Quê hương đã để lại trong tôi bao nhiêu kỷ niệm nhưng tôi chẳng muốn rời xa. 12 https://dethitiengviet.com/

  13. Học sinh dùng sai từ“nhưng” nên thay bằng từ“nên”. * Viết câu còn lặp từ: Ví dụ: Quê ngoại em là một vùng quê ở Quảng Bình, quê ngoại em có đồng lúa rộng, quê ngoại em có nhiều cá. Trong ví dụ trên học sinh đã lặp đi lặp lại “quê ngoại em” hướng dẫn các em có thể thay thế bằng các từ“nơi ấy” hoặc “nơi đó”. * Viết câu dài dòng hoặc chưa trọn ý: Ví dụ 1:Những trái cà phê như những chiếc lá khô. Ví dụ 2: Nhìn từxa mái nhà như một bông hoa cà phê. Ngôi nhà được làm bằng ngói to. - Một số bài làm kém của học sinh: * Bài làm mang tính liệt kê, kể lể, thiếu hình ảnh. Ví dụ: Tảngôi trường. Trường em là trường Lê Quý Đôn. Ngôi trường có mái ngói đỏ, tường vôi trắng với những hàng cây bao quanh. Trường em gồm hai dãy A và B. Trường có văn phòng, phòng thư viện, đoàn đội, đồ dùng, y tế học đường, bảo vệ. Các lớp học có đủ quạt trần, bình nước , tủđểsách, tường lớp có khẩu hiệu, năm điều Bác dạy và các bức tranh do chúng em sưu tầm hoặc vẽ. (Bài của học sinh Nguyễn Văn Khôi Lớp 5A1) * Bài làm không đi đúng trọng tâm, lan man kể vào những cảnh thứ yếu. Ví dụ: Tảngôi nhà gia đình em đang sinh sống. Ngôi nhà em ở là nhà xây. Nhà lợp ngói đỏtươi. Tường nhà quét vôi trắng. Nhà em có nuôi rất nhiều vật nuôi như lợn, bò, chó, mèo, gà. Vườn nhà em trồng rất nhiều cây như nhãn, cam, táo, ổi, xoan nâu. Nhà em hoa. Bố em 13 https://dethitiengviet.com/

  14. làm rẫy rồi lại về thả cá nữa nên rất vất vả. Em thấy cảnh ngôi nhà em thật đẹp và đầm ấm. (Bài làm của học Nguyễn Gia Tú lớp 5A1) * Bài làm của học sinh không biết xây dựng đoạn văn phát triển ý theo một logic hợp lý, diễn đạt còn chưa phù hợp. Ví dụ: Tả một đêm trăng đẹp. Trăng đêm nay hơi méo một tí. Em cũng đã được nhìn thấy trăng vào đêm trung thu năm ngoái nó tròn. Cảnh hôm ấy cũng đẹp y như hôm nay, bầu trời cũng có nhiều ông sao sáng lấp lánh. Bây giờ thì chúng em vừa ăn bánh vừa ngắm trăng. Ông trăng tròn như cái bánh. Cảnh vật hôm nay rất náo nhiệt. Các ngôi sao ở trên cao kia cứ thi nhau nhấp nháy vui mắt. Chúng em thi nhau ca hát. (Bài luyện nói của học sinh Trần Kim Hoàng lớp 5A1) *Bài làm không nắm được trình tự miêu tả, diễn đạt, dùng từchưa phù hợp, dùng từđịa phương. Buổi sáng cánh đồng như một tấm thảm khổng lồ. Đến gần ta thấy rõ những ruộng lúa xanh tốt. Trông xa, lúa ngã lên ngã xuống. Cuối mùa hè chắc ruộng lúa chín vàng . Nhìn gần, những cây lúa nằm xuống vì những bông lúa trĩu hạt. Cả nhà em hối hảra đồng gặt hái. ( Bài luyện nói của học sinh: Nguyễn Thùy Trang lớp 5A1) *Nguyên nhân: Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy có rất nhiều nguyên nhân khiến học sinh viết văn tả cảnh chưa tốt. Tuy nhiên có một sốnguyên nhân cơ bản sau đây: 14 https://dethitiengviet.com/

  15. Vốn kiến thức và kinh nghiệm viết văn miêu tả của học sinh còn hạn chế. Các em chưa có được những kiến thức về kiểu bài, học sinh không phân biệt được kể khác với tả. Học sinh chưa có được kĩ năng quan sát thực tế cảnh vật, con người, đồ vật… khảnăng quan sát của học sinh không được thường xuyên rèn luyện, quá trình quan sát còn hời hợt thiếu định hướng, thiếu tinh tế chính vì vậy học sinh chưa tìm ra được đặc điểm nổi bật của cảnh để tả. Khảnăng liên tưởng của học sinh còn hạn hẹp. Các em chưa có được kĩ năng lập dàn ý phát triển ý xây dựng đoạn văn. Học sinh chưa biết liên kết đoạn thành bài. Vốn từ ngữ của học sinh còn nghèo nàn, không hiểu nghĩa từ, dùng sai từ đồng nghĩa. Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc trong quá trình miêu tả, chưa viết được câu văn có hình ảnh, chưa biết sử dụng biện pháp tu từđã học vào việc viết văn. Nội dung phần lí thuyết tập làm văn giáo viên dạy chưa sâu, chưa chốt được kiến thức cho học sinh. Giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp tìm ra cách thức giúp học sinh khắc phục yếu kém. Chương trình sách giáo khoa hiện hành xây dựng chưa liền mạch còn có những bất cập khiến học sinh khó tiếp cận. 3. Nội dung và hình thức giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp * Để đạt được mục đích giúp học sinh có kĩ năng lập dàn ý và viết và nói đoạn văn miêu tả, đề tài này hướng đến những mục tiêu sau đây: - Hệ thống những vấn đề lý luận có liên quan đến việc nghiên cứu. 15 https://dethitiengviet.com/

  16. - Tìm hiểu và đổi mới phương pháp dạy và họccác dạng bài: Tập làm văn miêu tảlớp 5 hiện nay. - Bước đầu đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học về Tập làm văn Miêu tảlớp 5. - Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) cung cấp những kiến thức cơ bản để học sinh biết cách sử dụng Tiếng Việt làm công cụtư duy, giao tiếp và học tập, tạo điều kiện cho học sinh độc lập suy nghĩ, chủđộng sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, tạo hứng thú và nhu cầu sản sinh ngôn bản ở học sinh. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp b.1.Một số biện pháp vềphương pháp dạy văn tả cảnh: Một số biện pháp chung khi dạy văn tả cảnh. * Biện pháp 1:Dạy học sinh nắm vững thể loại và cấu tạo bài. Giáo viên cần giúp cho học sinh nắm vững bài văn tả cảnh gồm cấu trúc 3 phần. Học sinh dựa vào cấu trúc 3 phần đó để xây dựng nội dung đoạn văn, bài văn. Văn tả cảnh ở lớp 5 thường yêu cầu học sinh tả những cảnh nhỏ gần nơi các em đang sống: Ngôi nhà em ở, quang cảnh trường em, con đường đưa em tới trường, dòng sông với rất nhiều kỉ niệm…. Điều quan trọng là giúp học sinh xác định được: Đối tượng miêu tả là gì? Trọng tâm miêu tả của cảnh? Khi xác định được như vậy các em sẽ miêu tảđúng trọng tâm không bị lạc đề khi miêu tả. */ Biện pháp 2:Dạy kĩ năng quan sát. Một yêu cầu cơ bản để viết tốt bài văn tả cảnh đó là học sinh phải có kĩ năng quan sát. Học sinh phải biết cách quan sát và chọn lọc các chi tiết quan 16 https://dethitiengviet.com/

  17. sát được. Mọi kết quảquan sát được thể hiện trong bài văn tả cảnh của các em. Quan sát tinh vi, thấu đáo bài viết sẽđặc sắc hấp dẫn. Quan sát hời hợt phiến diện bài viết sẽ khô khan. Khi quan sát chúng ta có thể quan sát trực tiếp cảnh vật hoặc hồi tưởng lại những cảnh vật mà mình đã từng quan sát. Kĩ năng quan sát chủ yếu được hình thành trên cơ sở luyện tập. Thông thường các em học sinh đã sử dụng kĩ năng này nhiều lần và thường là không tựgiác, sơ lược đơn giản. Điều quan trọng là giáo viên giúp học sinh khi học văn tả cảnh biết tự giác, chủđộng có định hướng, mục đích khi quan sát. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lựa chọn trình tự quan sát. Tốt nhất là mỗi em tự tìm một trình tự quan sát thích hợp. Trường hợp học sinh yếu gặp khó khăn giáo viên có thể gợi ý trình tự quan sát. Thông thường có một số trình tự quan sát cảnh vật tương ứng với trình tự miêu tả: + Trình tự không gian: từ quan sát toàn bộđến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới , từ ngoài vào trong... + Trình tự thời gian: quan sát theo diễn biến thời gian từ bắt đầu đến kết thúc, từ mùa này sang mùa khác, tháng này sang tháng khác, tuần này sang tuần khác….. Dù quan sát theo trình tự nào thì học sinh cũng phải biết dừng lại ở bộ phận chủ yếu, trọng tâm của cảnh đểquan sát kĩ lưỡng. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan đểquan sát. Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định. Thông thường các em chỉ dùng mắt để quan sát giáo viên cần hướng dẫn các em dùng mũi để ngửi hương thơm của cây cỏ, dùng tai để nghe âm thanh của sự vật, dùng làn da để cảm nhận hơi thở, cảm nhận làn gió thổi, không khí.... Khi quan sát học sinh cần phải biết thu nhận đặc điểm đặc sắc hay độc đáo ở cảnh vật do từng giác quan mang lại. 17 https://dethitiengviet.com/

  18. Học sinh thu nhận các cảm xúc, các liên tưởng, hồi tưởng, so sánh do các đặc điểm của cảnh vật mang lại. Học sinh tìm tòi các từ ngữ thích hợp để diễn đạt các điều thu nhận trên. */ Biện pháp 3:Dạy kĩ năng lập dàn ý: Kĩ năng lập dàn ý có vai trò hết sức quan trọng đây là khâu quyết định của việc xây dựng nội dung bài văn. Muốn lập được dàn ý giáo viên phải hướng dẫn học sinh hai công việc chính đó là chọn lọc ý và sắp xếp thành dàn ý. Những điều các em quan sát thu thập được bao gồm cả thô lẫn tinh. Điều quan trọng khi lập dàn ý là các em biết lựa chọn tinh và loại bỏ thô. Dựa vào đâu để lựa chọn? giáo viên cần định hướng cho các em đâu là trọng tâm đâu là thứ yếu. Ví dụ: Khi tả hồ sen thì trọng tâm là tả hồ, tả sen còn cảnh bầu trời, cảnh vật quanh hồ là phụ. Các em cần biết sắp xếp nội dung theo từng phần dàn ý có thể là theo thứ tự không gian hoặc thứ thự thời gian. Với học sinh yếu kém giáo viên có thể cho học sinh lập dàn ý theo mức độ từ dễđến khó. Mức độ 1: Lập dàn ý dựa trên kết quả quan sát và câu hỏi định hướng. Mức độ 2: Lập dàn ý dựa trên kết quả quan sát. */ Biện pháp 4:Dạy học sinh kĩ năng dựng đoạn trong bài tả cảnh. Từdàn ý đã lập được học sinh sẽ sử dụng ngôn ngữ phát triển ý để dựng thành đoạn và bài. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh viết bài văn tả cảnh thành nhiều đoạn, mỗi đoạn tả một bộ phận của cảnh. Như vậy các đoạn đều có nội dung tập trung miêu tả cảnh định tả. 18 https://dethitiengviet.com/

  19. Khi hướng dẫn học sinh viết đoạn, giáo viên phải hướng dẫn các em đảm bảo có sự liên kết chặt chẽ vềý nghĩa giữa các câu trong đoạn để cùng tả những đối tượng có quan hệ mật thiết với nhau trong cảnh. Sự liên hệ của các câu về mặt ngôn ngữ là nhờ các biện pháp liên kết phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng…. Đoạn nào không đảm bảo các yêu cầu trên sẽ trở nên lộn xộn. Các đoạn văn trong bài liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh. Có nhiều cách liên kết đoạn văn như dùng từ ngữ thay thế, dùng câu nối….. Trong đoạn văn luôn có câu chủđề hoặc câu kết đoạn. Câu chủđềthường đứng ởđầu đoạn diễn dịch tóm tắt toàn bộ nội dung đoạn. Câu kết đoạn thường đứng ở cuối đoạn quy nạp. Thường thì trong văn tả cảnh khi miêu tả theo trình tự thời gian người ta hay dùng các từ chỉ thời gian để liên kết đoạn. Còn miêu tả theo thứ tự không gian thì dùng các từ chỉ vị trí. Khi xây dựng đoạn văn trong bài văn tả cảnh giáo viên cần hướng dẫn học sinh dựa vào nội dung dàn ý phát triển đoạn thì nội dung các đoạn không bị lặp dàn ý, đồng thời nội dung phong phú xúc tích. */ Biện pháp 5: Dạy kĩ năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong văn tả cảnh, sắp xếp ý... Ngôn ngữ góp phần làm cho bài văn tả cảnh trởnên sinh động và tạo hình. Khi hướng dẫn học sinh sử dụng ngô ngữ tả cảnh giáo viên cần hướng dẫn các em sử dụng tính từ chỉ màu sắc, hình khối, tính chất….. các từtượng thanh và tượng hình, các phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ….. Nếu học sinh biết sử dụng khéo chúng ta sẽ phối hợp với nhau, đan cài vào nhau dệt nên bức tranh phong cảnh bằng ngôn từ nhiều màu sắc, có góc cạnh. Sự sống của bài văn nằm trong hình ảnh. Khi sử dụng hợp lí các biện pháp tu từ sẽ giúp cho hình ảnh trở nên sống động gợi cảm, gợi hình. 19 https://dethitiengviet.com/

  20. Thông qua việc sử dụng ngôn từ và hình ảnh học sinh có thể bộc lộ cảm xúc của mình khi viết khiến bài văn chân thực và đặc trưng riêng của cá nhân mỗi học sinh. Muốn giúp học sinh biết sử dụng ngôn từ, lựa chọn hình ảnh phù hợp khi tả cảnh giáo viên phải giúp học sinh tích lũy vốn từ thông qua việc học các phân môn khác của Tiếng Việt. Việc tích lũy ấy chẳng khác nào dòng sông chắt chiu dần từng hạt phù sa để rồi có một bãi bồi màu mỡ hứa hẹn cho một vụ mùa bội thu cây trái. Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý sao cho hợp lí, biết chuyển ý chuyển đoạn. Ví dụ cho các em cụ thểnhư một bức tranh các em đang vẽ, không phải là vẽ tất cả các chi tiết cùng một lúc mà là vẽ lần lượt từng bộ phận từng chi tiết. Vậy khi viết đoạn văn hay bài văn tả cảnh cũng gần tương tựnhư vậy, viết từng câu và sắp xếp sao cho mạch lạc, gắn kết với nhau. */ Biện pháp 6: Xây dựng nội dung nói. Phải hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung nói, vì vậy khi ra đề, giáo viên phải móc nối mục đích của đề bài và đề bài phải hấp dẫn đối với các em, phải rộng rãi mở ra nhiều khả năng cho học sinh lựa chọn, có như vậy mới hấp dẫn được các em, giúp các em hứng thú trong học tập. Phân tích để xác định trọng tâm vấn đề cần quan sát và tiếp thu, hướng dẫn học sinh quan sát bằng nhiều giác quan để tái hiện chân thực sự vật. Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt để tìm được những nét riêng, nét tiêu biểu của sự vật và xác định rõ vị trí khởi điểm và trình tự quan sát, xác định rõ trọng tâm mà đề bài yêu cầu để vạch ra hướng quan sát cho học sinh. Khi đã có đầy đủ những chi tiết, những điều cần nói về đề tài giúp cho các em lập dàn ý, sắp xếp các ý quan sát được cho hợp lo-gíc. Trong tiết Tập làm văn này giáo viên cần rèn luyện cho học sinh tập nói theo các ý đã sắp xếp và học sinh không thể nói nếu không chuẩn bị kĩ nội dung nói, do đó việc giúp học sinh xây dựng nội dung nói là điều kiện đầu tiên để giờ Tập làm văn thành công. 20 https://dethitiengviet.com/

  21. b.2.Cách thức tiến hành từng tiết cụ thểnhư sau: Ví dụ 1: LUYỆN TẬP TẢ CẢNH ( Dạy theo nội dung TLHD TV5 tập 1B) I. Mục tiêu: Nêu được những nhận xét về cách miêu tả cảnh vật trong bài “Buổi sớm trên cánh đồng” ( BT1). Lập được dàn ý bài văn tả cảnh một buổi trong ngày ( BT2). II. Cách thức tiến hành: Bài tập 1: ( Áp dụng phương pháp dạy học theo mô hình VNEN) . Tiến hành dạy nội dung như SGK Bổ sung một số câu hỏi chốt nội dung lí thuyết. - Khi tả cảnh chúng ta nên chọn những sự vật nào để tả? ( Những sự vật tiểu biểu đặc trưng của cảnh) - Khi quan sát cảnh cần tả ta phải chú ý điểu gì? ( Quan sát bằng nhiều giác quan tập trung quan sát kĩ lưỡng tinh tế những sự vật hình ảnh nổi bật). Bài tập 2: Tiến hành như SGK – SGV Trường hợp học sinh yếu giáo viên có thể nêu câu hỏi định hướng cho học sinh. - Mở bài: Em định tả cảnh gì? Ởđâu? Em tả cảnh đó vào thời gian nào? Tại sao em lại lựa chọn cảnh đó để tả? - Thân bài: Em tả theo trình tự nào? 21 https://dethitiengviet.com/

  22. Em đã quan sát được những cảnh vật nào? Em sẽ lựa chọn hình ảnh tiêu biểu nào để tả. Em hãy ghi lại đặc điểm của các hình ảnh đó? - Kết bài: Em có nhận xét gì về cảnh vật đó? Nêu cảm nghĩ của em khi đứng trước cảnh vật đó? Ví dụ 2: LUYỆN TẬP TẢ CẢNH ( Dựa vào nội dung TLHD TV5 tập 1B trang 35) I. Mục tiêu: Nhận biết được cách quan sát khi tả cảnh trong hai đoạn văn trích( BT1). Biết lập dàn ý cho bài văn miêu tả một cảnh sông nước. II. Cách thức tiến hành: Bài tập 1: ( Áp dụng phương pháp dạy học theo mô hình VNEN) Tiến hành như SGK bổ sung một số câu hỏi nhằm chốt kiến thức lí thuyết. Khi quan sát cảnh vật ta nên quan sát vào những thời điểm nào và cần có chú ý gì ? ( Ta cần quan sát vào các thời điểm khác nhau và cần có sựliên tưởng để giúp sự vật trở nên gần gũi với con người hơn) Bài tập 2: Tiến hành theo đúng quy trình SGK trang …... Bổ sung câu hỏi xác định yêu cầu đề. Đề bài yêu cầu em làm công việc gì? Cảnh em sẽ tả là cảnh gì? Thời điểm nào em đã quan sát cảnh đó? Sau đó tiến hành theo quy trình. Ví dụ 3: LUYỆN TẬP TẢ CẢNH 22 https://dethitiengviet.com/

  23. ( Dựa vào nội dung TLHD TV5 tập 1B trang 52) I. Mục tiêu: Tìm được những dấu hiệu báo cơn mưa sắp đến, những từ ngữ tả tiếng mưa và hạt mưa, tả cây cối, con vật, bầu trời trong bài “ Mưa rào”; từđó nắm được cách quan sát và chọn lọc chi tiết trong bài văn miêu tả. Lập được dàn ý bài văn miêu tảcơn mưa. II. Cách thức tiến hành: Bài tập 1: ( Áp dụng phương pháp dạy học theo mô hình VNEN) Yêu cầu học sinh phân tích trả lời câu hỏi như sách giáo khoa. Giáo viên bổ sung câu hỏi nhằm chốt kiến thức về cách sử dụng từ ngữ trong bài văn miêu tả: - Em có nhận xét gì về cách sử dụng từ ngữ của tác giả khi miêu tảcơn mưa? ( Tác giả sử dụng nhiều tính từ, từ láy, từtượng thanh, tượng hình) - Việc sử dụng từ ngữnhư vậy có tác dụng gì? ( Sử dụng từ ngữnhư vậy làm cho cảnh vật trởlên sinh động, nội dung tả chân thực, thú vị) Giáo viên chốt nội dung lí thuyết về cách sử dụng từ ngữ khi miêu tả. Bài tập 2: Đây là một bài tập khó để tổ chức cho học sinh có thể lập được dàn bài tôi yêu cầu học sinh vềnhà quan sát cơn mưa và ghi lại những điều quan sát được. Học sinh đã có sự chuẩn bịtrước. Giáo viên chỉ phải kiểm tra kết quan sát của các em trước khi lập dàn ý. Bài tập khó giáo viên có thể dùng câu hỏi định hướng giúp các em lập dàn bài. 23 https://dethitiengviet.com/

  24. - Mở bài: Cơn mưa diễn ra ởđâu? Khi nào? - Thân bài: Dấu hiệu gì báo hiệu cơn mưa đến? Khi mưa đến cảnh vật có gì đặc biệt? Bầu trời? Mặt đất? Nước mưa? Cây cối? Loài vật? Con người? Em nghe thấy những âm thanh gì? Sau cơn mưa cảnh vật thay đổi như thế nào? - Kết luận: Cơn mưa có tác động gì đến cảnh vật? Cảm nghĩ của em. Từđịnh hướng trên học sinh có thể dễ dàng hoàn thành bài tập. II. Cách thức tiến hành: - Công tác chuẩn bị: Tổ chức cho học sinh quan sát cảnh đẹp của địa phương và ghi lại những điều quan sát được. Bài tập 1: Bổ sung một số câu hỏi hướng dẫn. - Đề bài yêu cầu tả cảnh gì? - Cảnh em lựa chọn là cảnh nào? Bài tập 2: Giáo viên chốt cho học sinh nắm vững cách xây dựng đoạn trước khi viết. - Xác định trọng tâm đối tượng miêu tả của đoạn văn. - Xác định trình tự miêu tả. Mởđoạn: Nêu ý chính của đoạn. Thân đoạn: Phát triển ý của đoạn, miêu tả từng chi tiết 24 https://dethitiengviet.com/

  25. Kết đoạn: Nêu cảm nghĩ về cảnh đã sử dụng miêu tảtrong đoạn. - Lựa chọn từ ngữ: từ chỉ màu sắc, đặc điểm âm thanh - Hình ảnh so sánh, nhân hóa, bộc lộ cảm xúc khi viết Trong những buổi học buổi chiều tôi thường thiết kế cho các em theo một mạch kiến thức liên tiếp để các em dễ hình dung. Ví dụ: Dạy cấu tạo bài văn dạy dàn ý, trình tự miêu tả dạy từ ngữ, hình ảnh miêu tả dạy từ ngữ, chuyển dàn ý thành đoạn xây dựng đoạn văn theo yêu cầu hoàn thành bài văn, kiểm tra đánh giá. Tôi cũng chú trọng cung cấp cho học sinh những kiến thức về lí thuyết kiểu bài một cách rõ ràng cụ thể, giúp các em có điểm tựa và cơ sở luyện tập kĩ năng viết văn và trình bày bằng lời trước lớp. * Những điều cần chú ý trong lúc học sinh trình bày (nói). - Một số biện pháp rèn kĩ năng hội thoại: Để giúp học sinh luyện tập các nghi thức lời nói và phát triển được ngôn ngữ nói, giáo viên có thể vận dụng các biện pháp sau đây: - Tạo dựng các tình huống giao tiếp thực sự hoặc tình huống giả định. - Phân tích rõ vai giao tiếp và yêu cầu giữ đúng vai giao tiếp trong hội thoại. - Hướng dẫn học sinh xác định rõmục đích giao tiếp. Mỗi người tham gia hội thoại đều có mục đích giao tiếp của mình. - Định hướng học sinh lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp. Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ khăng khít. Việc luyện tập các nghi thức lời nói cần kết hợp với việc học văn hóa ứng xử và kinh nghiệm giao tiếp bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ nói được ở đây là ngôn ngữ nói văn hóa, có khác với ngôn ngữ nói tự nhiên, qua đó các em được luyện tập tác phong giao tiếp văn minh, lịch sự. - Thực hành hội thoại theo hình thức đóng vai. - Rèn luyện kĩ năng đặt và trả lời câu hỏi, trao đổi, thảo luận: để tổ chức hoạt động dạy học rèn kĩ năng trao đổi, thảo luận, trước tiên giáo viên cùng học sinh làm rõ các thành tố trong tình huống giao tiếp: các nhân vật tham gia giao tiếp (em và các thành viên trong gia đình), đề tài giao tiếp (trao đổi ý kiến về việc 25 https://dethitiengviet.com/

  26. học thêm môn năng khiếu; trò chuyện về tính cách của nhân vật trong truyện đã đọc); mục đích giao tiếp (người thân hiểu và ủng hộ nguyện vọng; thể hiện tình cảm của mình về nhân vật);... Tiếp theo, giáo viên có thể nêu câu hỏi định hướng cho cuộc trao đổi và cùng một học sinh đóng vai để thực hiện cuộc trao đổi (làm mẫu). Cuối cùng, giáo viên cho học sinh đóng vai thực hiện cuộc trao đổi trong nhóm và trước lớp. Như chúng ta đã biết trong bốn bước của một tiết Tập làm văn thì nhiệm vụ chính của tiết học tập trung ở bước 3: hướng dẫn học sinh tập nói. Để thực hiên tốt bước này, giáo viên cần nắm vững những yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết học với từng kiểu bài, từng đối tượng cụ thể. Nhìn chung, có thể tiến hành theo phương pháp sau cần: *Giáo viên cần chuẩn bị cho mình lời mở đầu sao cho có thể thu hút người nghe hoặc gây tác động kích thích không khí lớp học sôi nổi. Tôi thường gọi những em bạo dạn, có khả năng nói tốt để mở đầu, tránh gọi những em nhút nhát, khả năng nói còn yếu nói trước. *Tạo nhu cầu, không khí tốt cho học sinh nói: Biết tạo nhu cầu nói cho học sinh để học sinh có nhu cầu nói thì đề tài phải có vốn sống, vốn hiểu biết của các em đánh thức ở các em những gì các em đang có. Trước mỗi giờ học giáo viên phải tạo bầu không khí hào hứng, cách nêu vấn đề phải hấp dẫn để lôi cuốn học sinh vào học tập. Biết tạo hoàn cảnh nói tốt, ngoài việc tránh sự tác động ở bên ngoài, giáo viên còn phải biết thiết lập một quy tắc tế nhị trong hội thoại. Khi học nói ngoài việc nghe, giáo viên cũng cần chú ý đến hoạt động chung của cả lớp, chú ý đến tất cả những lờiđộng viên, những ánh mắt nhìn bạn bè với người nói. Đặc biệt giáo viên phải vui vẻ, tuyệt đối không có những lời nói, những cử chỉ gay gắt với học sinh kể cả khi không vừa ý. *Tạo tính tự tin: Để học sinh tự tin khi nói, giáo viên phải tạo được bầu không khí học tập thân mật cởi mở, giáo viên cần khéo léo khuyến khích, động viên cho các em bộc lộ và phát huy khả năng, biết gợi ý đúng lúc khi các em 26 https://dethitiengviet.com/

  27. lúng túng, không ngắt lời của học sinh để nhận xét làm cho các em hoang mang thiếu tự tin và hứng thú để nói tiếp. *Trong khi học sinh nói giáo viên tổ chức cho các học sinh khác lắng nghe và hạn chế các yếu tố gây nhiễu trong quá trình học sinh nói. Đồngthời giáo viên cần phải chú ý lắng nghe học sinh nói, biết tiếp sức cho học sinh đúng lúc, các em gặp khó khăn trong việc chọn từ để diễn đạt, phải giúp đỡkịp thời nếu học sinh nói lan man, ý rời rạc không thể hiện rõ nội dung, giáo viên có thể khéo léo ngắt lời học sinh để các em điều chỉnh bằng cách tự đặt câu hỏi. Sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh tìm ýhoặc gợi tìm từ ngữ diễn đạt mỗi khi lúng túng. Giáo viên cần kiên trì hướng dẫn học sinh tập nói theo dàn bài một cách tự nhiên, không gò ép. Khuyến khích học sinh nói nhiều cách khác nhau, khai thác sắp xếp ý theo cách riêng của mình miễn là bám sát theo yêu cầu chung: *Hướng dẫn học sinh tập nói từng ý, nói 2 đến 3 ý liên tục, nói một đoạn, một phần bài và tiến tới nói toàn bài (nhất là học sinh khá giỏi), mỗi ý giáo viên thường cho 2- 3 em học sinh tập nói. Đây là nhiệm vụ chính của tiết học. Tùy theo trình độ của học sinh mà giáo viên có thể yêu cầu các em nói từng ý, từng đoạn hay cả bài, yêu cầu học sinh khác lắng nghe và nhận xét kết quả trình bày của bạn về ý xem bạn đã đúng, đủ và cụ thể hay chưa về lời, về cách dùng từ đặt câu, diễn đạt có chính xác hay không, sau đó giáo viên tóm tắt những ý học sinh đã nói, chỉ rõ ưu, khuyết điểm và đặt biệt nếu học sinh trình bày tốt hoặc có nhiều cố gắng, giáo viên biểu dương và khuyến khích, dẫn dắt hoặc gợi ý tìm từ ngữ diễn tả mỗi khi học sinh lúng túng. Hướng dẫn học sinh tập nói theo dàn bài giúp học sinh trình bày bài nói một cách tự nhiên, thoải mái. Yêu cầu học sinh còn lại nghe bạn trình bày để nhận xét, rút kinh nghiệm cho bản thân. Giáo viên giúp học sinh thấy rõ ưu, khuyết điểm để rút kinh nghiệm, Đồng thời khen ngợi, động viên học sinh kịp thời. *Nâng dần mức độ nói từ thấp đến cao. (theo đối tượng học sinh) 27 https://dethitiengviet.com/

  28. Ví dụ: Vớihọc sinh yếu, trung bình, yếugiáo viên gợi ý các em nói miệng mở bài trực tiếp (hoặc thân bài nói một phần nhỏ như tả ngoại hình ...). Ví dụ: Với bài văn “Tả hình dáng và tính tình của bà em” các em chỉ cần nói được như “Trong gia đình người em yêu quý nhất đó là bà”. Vớihọc sinh khá giỏicác em nói kiểu mở bài gián tiếp (hoặc nói cả phần thân bài, cả bài …). Như “Chuông đồng hồ buông chín tiếng. Màn đêm yên ắng, tĩnh mịch lạ thường. Chỉ còn âm thanh của gió khua xào xạc trong khu vườn trước ngõ. Em rời bàn học ra trước sân, vươn vai hít thở không khí trong lành để cố xua đi cơn buồn ngủ. Còn lại bài tập toán nữa, phải cố làm cho hết. Từ giường bên có tiếng trở mình khe khẽ. Bà nội còn thức để chờ em”. Phần thân bài học sinh yếu, trung bình yếuvới bài văn “Tả hình dáng và tính tình của bà em” học sinh chỉ cần nói được phần tả hình dáng. Học sinh khá giỏinói cả phần thân bài: Hình dáng và tính tình, tiến tới cả bài. *Sửa cho các em cách dùng từ, nếu các em dùng từ để tả chưa chính xác thì giáo viên gọi bạn nhận xét với gợi ý các câu hỏi của giáo viên. Ví dụ: Với bài văn “Tả một em bé đang tuổi tập nói, tập đi” trong giờ tập làm văn miệng có em nói “mái tóc của em bé mỏng manh như mảnh giấy được tạo bởi những sợi tơ ngắn” - Để sửa các em dùng từ, giáo viên gọi bạn nhận xét với gợi ý câu hỏi như: cách dùng từ để so sánh mái tóc em bé như vậy đã phù hợp chưa? học sinh nhận xét, giáo viên hướng dẫn học sinh sửa như: “mái tóc của em bé mềm, mượt như tơ” *Mở rộng thêm ý văn bổ sung về cảm xúc cho các em. Nếu học sinh chưa sử dụng các biện pháp nghệ thuật thì giáo viên phải gợi mở để bổ sung ý văn và rèn tư duy ngôn ngữ cho các em. Ví dụ: Với bài văn “Tả hình dáng và tính tình của cô giáo” một học sinh nêu: “Mái tóc đen nhánh ôm lấy khuôn mặt hồng hào của cô, thật dễ mến” 28 https://dethitiengviet.com/

  29. Một học sinh khác sửa lại: “Tả hình dáng và tính tình của cô giáo” một học sinh nêu: “Mái tóc đen nhánh mượt mà như dòng suối ôm lấy khuôn mặt trái xoan hồng hào của cô, thật dễ mến” + Với bài văn “Tả hình dáng và tính tình của bà em” một học sinh nói: “Bà em có đôi mắt ánh lên vẻ hiền từ và những nếp nhăn đã hằn sâu khuôn mặt phúc hậu của bà, tóc bà bạc trắng” Để mở rộng thêm ý văn, cô giáo hỏi: Đứng nhìn ngắm bà gợi cho em cảm xúc gì? (Lòng xót thương vì bà đã vất vả một nắng hai sương nên tóc bà bạc trắng, mắt mờ, lưng còng, em kính trọng bà và yêu thương bà, để bà lúc nào cũng vui). + Trong bài văn tả cảnh sinh hoạt, có em nêu:“Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra sân trường. Sân trường bỗng nên ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng, áo màu thật nhộn nhịp” Nội dung như thế là được. Câu văn gọn, rõ ý. Nhưng để sinh động hơn, học sinh có thể sửa lại: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra như một đàn ong vỡ tổ. Sân trường bỗng nên ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng như những đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”. *Mở rộng thêm ý văn bổ sung và rèn tư duy ngôn ngữ cho các em để bài văn sinh động, học sinh có hứng thú học tập. Học sinh đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật thì giáo viên có thể gợi mở thêm để từ một ý mà cảm nhận qua nhiều hình ảnh khác nhau. Ví dụ: Với bài văn “Tả cảnh sông nước” có em nêu: “Ngoài khơi, đoàn thuyền đánh cá trông như những cánh bướm bay dập dờn trên mặt biển” Câu văn giàu hình ảnh có dùng biện pháp nghệ thuật như thế là tốt, nhưng đểhọc sinh tránh lặp các hình ảnh so sánh giống nhau của em này với em kia thì giáo viên gợi mở để học sinh có nhiều hình ảnh so sánh khác nhau như: “Ngoài khơi, đoàn thuyền đánh cá trông như những hộp đồ chơi của trẻ em”. 29 https://dethitiengviet.com/

  30. - “Dọc bờ biển, hàng dừa như những chú Hải quân đang ngày đêm đứng canh giữ biển đảo”. hoặc“ Dọc bờ biển, hàng dừa đang nghiêng mình che mát cho khách du lịch”. hoặc“Dọc bờ biển, hàng dừa đang nghiêng mình soi bóng xuống mặt biển”. c. Mối quan hệ giữa giải pháp và biện pháp Mỗi giáo viên chúng ta đều có các hình thức, biện pháp nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh. Các giải pháp, biện pháp đều có mối quan hệkhăng khít để tạo nên biện pháp giúp đỡ học sinh tốt nhất nhưng với hình thức nào cũng có mục tiêu chung là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. d. Kết quảthu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quảứng dụng. Như vậy mỗi tiết Tập làm văn miệng có khoảng 86% số học sinh được nói, nghĩa là trongtổng số 29 học sinh của lớp 5A1 có khoảng 25 học sinh được nói trong giờ Tập làm văn với cùng nội dung một câu chuyện giống nhau, như vậy đã là sự cố gắng của giáo viên trực tiếp giảng dạy và qua đây chất lượng nói của học sinh cũng được nâng cao một cách rõ rệt. Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, học sinh mạnh dạn, tự tin hơn biết sử dụng từ, các biện pháp nghệ thuật, chất lượng của học sinh thông qua các giờ Tập làm văn được nâng lên rõ rệt so với khi chưa áp dụng sáng kiến. Vì vậy hiệu quả của sáng kiến được nâng lên rõ rệt, kỹ năng trình bày vấn đề bằng lời nói được nâng lên, khắc phục được tình trạng trình bày vấn đề lúng túng của học sinh. Kết quả cụ thể như sau: Kết quả Thời điểm Học sinh Trình bày Trình bày Trình bày Tổng số đánh giá tham gia chưa lưu loát còn lúng túng lưu loát học sinh khảo sát TS % TS % TS % 30 https://dethitiengviet.com/

  31. Đầu năm 29 29 6 20 20,7 69 8 5 27,6 17,2 15 4 13,7 51,7 Cuối năm 29 29 So sánh = = +14+48,3 3 11 38 10,4 Qua số liệu khảo sát việc học sinh nói trong giờ Tập làm văn lớp 5 như trên, so sánh với thống kê khảo sát đầu năm ta thấy tỉ lệ học sinh biết trình bày vấn đề một cách lưu loát tăng 14 em = 48,3% số học sinh đọc trìnhbày vấn đề còn lúng túng giảm 11 em = 38%. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1.Kết luận và bài học kinh nghiệm Trong sự nghiệp đổi mới “Công nghiệp hoá- hiện đại hoá” Mục tiêu giáo dục là thực hiện giáo dục toàn diện: Đức- Trí- Thể- Mỹ cho học sinh. Chúng ta thực hiện chương trình thay sách đó là chiến dịch lớn của ngành giáo dục. Trong đó môn Tiếng Việt có vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển tư duy, sáng tạo cho học sinh, giúp cho các em học tốt các môn khác. Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và môn Tập làm văn lớp 5 nói riêng góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Kinh nghiệm này không chỉ có tác dụng đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy mà nó giúp phụ huynh học sinh có cách nhìn đúng đắn hơn về phần dạy Tiếng Việt cho học sinh con em mình. Trong quá trình học tập đòi hỏi mỗi người phải biết tự học tự tìm tòi sáng tạo trong thực tế. Đó là cả một quá trình phấn đấu không ngừng của thầy và trò trong nhà trường Tiểu học. Nhất là đối với học sinh lớp 5 khi luyện nói qua các tiết học Tập làm văn. Là người đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục, đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có tâm huyết với nghề nghiệp, có đầu óc suy luận khoa học, sáng tạo mềm dẻo trong việc vận dụng các phương pháp dạy học, thích hợp với đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện của học sinh lớp mình dạy. 2. Kiến nghị 31 https://dethitiengviet.com/

  32. * Bài học kinh nghiệm: Để giờ học đạt kết quả tốt thì những việc làm trước khi nói, trong khi nói và sau khi nói phải được tiến hành thường xuyên đối với từng giai đoạn, từng học sinh. Giáo viên phải chuẩn bị tốt về mọi mặt nội dung cũng như yêu cầu của bài, dự kiến những khả năng có thể xảy ra trong giờ học, chỉ rõ mức độ cần đạt của giờ học để từ đó lựa chọn những phương pháp cho phù hợp. Muốn học sinh có kĩ năng nói tốt chỉ cần rèn luyện cho các em nói, cách diễn đạt trực tiếp không chỉ trong giờ Tập làm văn mà còn ở tất cả các giờ học khác để thành lập thói quen nói tự tin, nói có văn hóa cho học sinh vì giờ Tập làm văn là giờ học tổng hợp kiến thức của nhiều phân môn nên cần sự hỗ trợ của các phân môn khác trong việc rèn kĩ năng nói. Khi đặt câu hỏi cho học sinh cần đặt lưu ý đến khả năng từ lời nói của các em vì nếu câu hỏi khá dài rộng sẽ không tổng hợp được kiến thức của học sinh và còn làm giảm khả năng nói của các em. Khi tổ chức cho học sinh nói, giáo viên nên nhập vai cùng các em, đi cùng hướng cảm xúc của các em để các em nói ra cảm xúc của mình. Nghĩa là lúc này giáo viên phải vừa là “đạo diễn” vừa là “diễn viên”, có như vậy mới thu hút được các em vào giờ học và gây hứng thú để các em nói. Trong quá trình học sinh nói giáo viên chú ý cho học sinh trong việc diễn đạt câu đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên chân thành và giản dị chưa đòi hỏi sự “chau chuốt” bóng bẩy về lời. Do vậy có thể chấp nhận học sinh dùng nhiều từ ngữ thông dụng có phần “nôm na” chưa thật hay nhưng diễn đạt được ý muốn nói của các em học sinh, có thể dùng nhiều câu ngắn gọn hoặc câu dài kết hợp với ngữ điệu hay cử chỉ, điệu bộ nét mặt để làm tăng sức gợi cảm của câu nói. Ngoài ra giáo viên cần quan tâm đến cách trình bày mạch lạc giữa các ý để nhằm tạo ra sự thuyết phục đối với ngôn ngữ, giọng nói phải phù hợp với nội dung diễn tả, thái độ thoải mái, tự nhiên. 32 https://dethitiengviet.com/

  33. Tóm lại, cái khó khăn của việc dạy Tập làm văn miệng là giáo viên phải giúp học sinh chọn từ ngữ, văn bản nghĩa là học sinh phải thực sự làm việc sáng tạo. Vì vậy, để học sinh tạo lập được văn bản nói, giáo viên cần phải tạo được không khí hào hứng, kích thích học sinh muốn nói và mạnh dạn, từ đó hướng dẫn các em nói sao cho đạt kết quả tốt nhất. Để sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh Tiểu học ở vùng miền núi nói riêng cần có sự cố gắng trong quá trình giảng dạy, đầu tư về trang thiết bị dạy học, có cách tổ chức hoạt động cho học sinh cụ thể để có thể động viện khuyến khích học sinh bộc lộ được những điều mình suy nghĩ của mình qua lời nói. Để đảm bảo cho việc phát triển kĩ năng nói của học sinh Tiểu học cần đảm bảo một số điều kiện sau đây: - Chủ điểm, chủ đề luyện nói phải phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học ở mỗi giai đoạn. - Hình thức tổ chức hoạt động học tập phải linh hoạt. Khi học sinh tham gia vào nhóm hoạt động, giáo viên cần theo dõi và không bỏ sót học sinh nào khi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi, chứ không chỉ chú ý đến những học sinh hay giơ tay. Giáo viên cần đảmbảo tạo cơ hội cho tất cả các học sinh lần lượt được nói trước lớp. Chính vì vậy, việc phân nhóm nhỏ để tập nói là rất cần thiết. - Phối hợp nhịp nhàng các hoạt động ngoại khóa khác để phát triển kỹ năng nói. - Kết hợp cùng giáo viên nhạc khi học sinh tập hát to, ngay cả khi các em ở một mình, các em sẽ vượt qua nỗi sợ diễn thuyết. Sử dụng các trò chơi và bài tập thể dục yêu cầu học sinh trình diễn trước lớp. - Khuyến khích cha mẹ học sinh giúp con mình phát triển kỹ năng ngôn ngữ tại nhà. 33 https://dethitiengviet.com/

  34. - Học sinh cần chăm chỉ chịu khó tìm hiểu trau dồi kiến thức qua sách, vở, báo, truyện ...tự tìm tòi học hỏi, tự phát hiện những kiến thức cho bản thân. Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và thực nghiệm có hiệu quả trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn nói lớp 5. Rất mong được sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp và các cấp quản lý để sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng rộng rãi trong các trường Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh Tiểu học Lê Quý Đôn thị xã Buôn Hồ nói riêng tỉnh Đăk Lắk nói chung. Xin chân thành cảm ơn! Bình Tân, ngày 30 tháng 05 năm 2019 Người viết Nguyễn Thị Hoàng Oanh XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG 34 https://dethitiengviet.com/

  35. 35 https://dethitiengviet.com/

More Related