0 likes | 7 Views
Tou00e1n hu1ecdc lu00e0 mu00f4n hu1ecdc cu00f3 vu1ecb tru00ed vu00f4 cu00f9ng quan tru1ecdng. Nu00f3 gu00f3p phu1ea7n u0111u00e0o tu1ea1o hu1ecdc sinh tru1edf thu00e0nh con ngu01b0u1eddi phu00e1t triu1ec3n tou00e0n diu1ec7n, nu0103ng u0111u1ed9ng, su00e1ng tu1ea1o. Hu1ecdc sinh cu00f3 u0111iu1ec1u kiu1ec7n phu00e1t triu1ec3n nu0103ng lu1ef1c tu01b0 duy, phu01b0u01a1ng phu00e1p suy luu1eadn vu00e0 nhu1eefng phu1ea9m chu1ea5t cu1ee7a con ngu01b0u1eddi lao u0111u1ed9ng mu1edbi.<br>u0110u1ed1i vu1edbi mu00f4n Tou00e1n lu1edbp 2 du1ea1ng giu1ea3i tou00e1n cu00f3 lu1eddi vu0103n lu00e0 lou1ea1i khu00f3, nu00f3 ru1ea5t u0111a du1ea1ng, phong phu00fa, cu00f3 nhiu1ec1u lou1ea1i bu00e0i tou00e1n u1edf nhiu1ec1u du1ea1ng khu00e1c nhau. Tou00e1n cu00f3 lu1eddi vu0103n luu00f4n giu1eef mu1ed9t vu1ecb tru00ed quan tru1ecdng, bu1edfi nu00f3 bu1ed9c lu1ed9 mu1ed1i quan hu1ec7 qua lu1ea1i vu1edbi cu00e1c mu00f4n hu1ecdc khu00e1c cu0169ng nhu01b0 trong thu1ef1c tiu1ec5n cuu1ed9c su1ed1ng.
E N D
1.PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Toán học là môn học có vị trí vô cùng quan trọng. Nó góp phần đào tạo học sinh trởthành con người phát triển toàn diện, năng động, sáng tạo. Học sinh có điều kiện phát triển năng lực tư duy, phương pháp suy luận và những phẩm chất của con người lao động mới. Đối với môn Toán lớp 2 dạng giải toán có lời văn là loại khó, nó rất đa dạng, phong phú, có nhiều loại bài toán ở nhiều dạng khác nhau. Toán có lời văn luôn giữ một vị trí quan trọng, bởi nó bộc lộ mối quan hệ qua lại với các môn học khác cũng như trong thực tiễn cuộc sống. Nó góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh tiểu học, giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ năng giải toán. Đồng thời giáo viên dễ dàng phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm cho học sinh. Việc tiếp thu giải toán có lời văn là một việc hết sức khó khăn đối với các em học sinh. Các em còn hạn chế về ngôn ngữ, tư duychưa cao, nên để hoàn thành tốt một bài toán có lời văn phảimất nhiều thời gian và công sức đối với cả thầy và trò. Làm thế nào để giúp các em có thể dễ dàng làm được các bài toán có liên quan đến giải toán có lời văn. Làm thế nào để các thầy cô không phải chật vật khi dạy các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Xuất phát từ thực tế giảng dạy của tôi cũng như các đồng nghiệp ở Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, tôi thấy việc giải toán có lời văn còn nhiều hạn chế chưa giúp học sinh phát triển tốt năng lực tư duy, suy luận trong quá trình giải toán. Các em còn nhầm lẫn giữa các dạng toán, rập khuôn theo mẫu hoặc theo công thức mà không giải thích được cách làm. Đặc biệt không nhận thấy được mối liên hệ giữa các số liệu, dữ kiện cụ thể của bài toán dẫn đến hiểu sai nội dung bài toán nên lựa chọn phép tính không đúng. Số học sinh giải được bài toán theo nhiều cách chiếm số ít. Điều đó làm tôi phải suy nghĩhết sức trăn trởbởi mình là một giáo viên trực tiếp đứng lớp. Đây là lí do tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh vận dụng tốt cách giải các bài toán có 1 https://dethitiengviet.com/
lời văn trong môn Toán lớp 2A1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn năm học 2019 - 2020”.Nhằm góp phần tìm ra cách giảng dạy tốt nhất, đạt được yêu cầu của bộ môn nhằm góp phần vào việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay, tôi rất mong nhận được sựgóp ý của hội đồng khoa học và bạn bè đồng nghiệp. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: Nghiên cứu vềcách hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn ở lớp 2. Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và biện pháp thực hiện giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2A1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn. Phát hiện những khó khăn, vướng mắc, tồn tại khi học sinh giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. Đề xuất và biện pháp giải quyết; nhằm nâng cao nghiệp vụ của bản thân; trao đổi kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp. 3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về“Một số biện pháp giúp học sinh vận dụng tốt cách giải các bài toán có lời văn trong môn Toán lớp 2A1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn năm học 2019 – 2020". 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn giảng dạy môn toán lớp 2 thông qua việc học sinh giải bài toán có lời văn trong năm học 2019– 2020 tại lớp 2A1 trường tiểu học Lê Quý Đôn. Thời gian thực hiện: Từtháng 9 đến hết tháng 12 năm học 2019 – 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí thuyết Phương pháp điều tra và nghiên cứu thực tiễn Phương pháp trắc nghiệm. 2 https://dethitiengviet.com/
Phương pháp quan sát. Phương pháp đàm thoại, gợi mở. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp dự giờ. 3 https://dethitiengviet.com/
II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Trong các mạch kiến thức toán ởchương trình toán Tiểu học thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp 2. Bởi vì ở lớp 1 các em mới được làm quen cuối học kì 2. Hơn nữa lứa tuổi các em sốlượng vốn từ sự hiểu biết, khảnăng đọc hiểu, khảnăng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa biết học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thểđặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 2 tôi thấy phần giải bài toán có lời văn giáo viên rất vất vả. Trong năm học 2019 – 2020 tôi suy nghĩ làm thếnào để giúp các em nắm vững và có kĩ năng giải loại toán này ngay từđầu năm lớp 2 góp phần làm nền tảng giúp các em học tốt môn Toán ở bậc Tiểu học. Tôi luôn nghiên cứu kĩ bài trước khi lên lớp, dự kiến các phương pháp khi giảng bài đểđạt kết quả tối ưu. Ngoài ra tham khảo các sách hướng dẫn, sách giáo khoa, các loại tài liệu khác có liên quan đến việc giảng dạy, thường xuyên học hỏi, dự giờđồng nghiệp, trao đổi kinh nghiệm, tìm tòi và rút ra một vài kinh nghiệm trong giảng dạy cho bản thân để giúp các em tiếp thu bài tốt, kích thích cho các em lòng say mê, sáng tạo thích học toán và yêu thích môn Toán, có kỹnăng nắm vững các dạng toán trong chương trình Toán lớp 2, để tiết dạy đạt hiệu quả tốt hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở bậc Tiểu học. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Ngay đầu năm học 2019 - 2020 tôi được Ban giám hiệu phân công dạy lớp 2A1 có tổng số 25 học sinh. Trong đó có 13 học sinh nữ và 12 học sinh nam. Tôi thấy hầu hết các em đều nhút nhát, đọc bài chậm, tiếp thu bài chưa đồng đều và đặc biệt rất mau quên. Đa số các em ngoan, hồn nhiên, ham chơi chưa có nề nếp và 4 https://dethitiengviet.com/
tinh thần trách nhiệm trong học tập, hay nói chuyện, thích làm việc riêng trong giờ học. Nhiều học sinh này thường hay làm bài ẩu dẫn tới sai sót hoặc chỉ đọc bài qua loa nên không biết làm thế nào cho đúng. Có trường hợp ngồi chờ cô giáo chữa bài hoặc bạn giải trên bảng để chép và rồi bài tập sau vẫn không làm được bài. Phần nhiều cha mẹ các em làm nông, làm thuê, thậm chí có nhiều em ở với ông bà người thân vì bố mẹ phải đi làm ăn xa vì điều kiện kinh tếgia đình còn gặp nhiều khó khăn. Nên phụhuynh còn lo đến cơm gạo áo tiền chứchưa thực sựquan tâm đến việc học của các em. Vì thế khi truyền thụ kiến thức cho các em giáo viên gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy các em thực sự lúng túng khi học đến các bài giải bài toán có lời văn. Một sốem chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đềtoán để tìm ra cách giải, chưa biết phân tích bài toán tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, lời giải thiếu lôgic, nhiều em khi viết lời giải rập khuôn không biết sáng tạo. Ngôn ngữ toán học còn hạn chế, kỹnăng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có phương pháp trong giải toán có lời văn. Khi học toán và giải toán còn máy móc nặng về rập khuôn, bắt chước. Học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số, sai đơn vị tính. Những tiết học đầu tiên có bài giải toán có lời văn trong lớp chỉ có khoảng 20% số học sinh biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số và xác định được đơn vịtính đúng. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lung túng, sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại lại không biết để trả lời. Chứng tỏcác em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. GV phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này. Trước thực trạng đó, tôi tiến hành khảo sát môn toán dạng bài “Giải toán có lời văn”. Sau đây là kết quả khảo sát của học sinh lớp 2A1 trường tiểu học Lê Quý Đôn: Viết đúng câu Viết đúng phép Viết đúng đáp Giải đúng cả 3 Sĩ số 5 https://dethitiengviet.com/
lời giải tính số bước trên SL % SL % SL % SL % 25 5 20 10 40 7 28 5 20 * Phía giáo viên: Giáo viên chưa chuẩn bị tốt cho các em các bước để giải bài toán trong chương trình. Những bài dạng phép tính hầu như học sinh đều làm được nên giáo viên tỏ ra chủ quan, nên khi gặp toán có lời văn giáo viên ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm, chỉ tập trung vào dạy kĩ năng viết phép tính của học sinh mà quên mất rằng đây là những bài nòng cốt là bài giúp học sinh có cơ sởban đầu khi học toán có lời văn. Giáo viên chưa giúp học sinh luyện nói theo câu hỏi của các bài toán từ đó tạo cho học sinh thói quen, lối mởđể từbước lời giải hình thành phép tính cho bài toán giải đó. Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 2 còn hạn chế nên khi giảng dạy giáo viên sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm được các hướng giải và giải toán còn khó hiểu không thể tiếp thu được kiến thức. Khảnăng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy mạch kiến thức “Giải toán có lời văn ” còn thiếu linh hoạt. Giáo viên còn thiếu đồ dùng, ít hay ngại làm đồ dùng dạy học nhằm phục vụ cho tiết học. Chưa quan tâm đúng mực đối với từng đối tượng học sinh, chưa cho học sinh đọc kĩ đềbài, chưa phân tích bài toán khi giảng mà chỉ cho học sinh tựđọc, tự tìm cách giải. Khi giảng thay vì bài toán giải đó nên tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng thì giáo viên chỉ hỏi rồi phân tích chiếu lệ ghi tóm tắt bằng lời nên học sinh khó hình dung và không tượng tượng ra hướng giải. Nhiều khi giáo viên còn lúng túng khi tạo ra các tình huống sư phạm để nêu vấn đề, đặt vấn đề, lấy ví dụtương tự giúp học sinh dẽ hình dung ra dạng toán giải và làm bài tốt hơn. Phía học sinh 6 https://dethitiengviet.com/
Do học sinh mới bước vào lớp 2 kiến thức giải toán có lời văn còn sơ đẳng, tư duy của các em còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ởgiai đoạn này các em chưa đọc, viết còn chậm, có em đọc còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán rồi nhưng các em không hiểu, không nhớ bài toán nói gì, thậm chí có những em đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu bài toán yêu cầu điều gì. Vì vậy học sinh không làm đúng cũng là điều dễ hiểu. Vẫn còn một số học sinh còn gặp khó khăn trong việc nhận dạng bài toán,đặc biệt là đặt lời giải. Cũng có nhiều học sinh thường có quan niệm sai lầm dễ thấy “nhiều hơn” thì làm tính cộng và “ít hơn” thì làm tính trừ. Khi về nhà học sinh lại chưa được bố mẹquan tâm đến bài vở của con do đi làm vất vả hoặc muốn quan tâm nhưng không biết dạy con sao cho đúng phương pháp dẫn đến giáo viên rất vất vả khi dạy đến dạng bài toán có lời văn. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của giải pháp *Đối với giáo viên Giúp giáo viên nghiên cứu kĩ về các dạng giải toán có lời văn. Giáo viên xác định được kĩ năng dạy cho học sinh về giải toán có lời văn, thông qua việc rèn cho học sinh thao tác cơ bản: phân tích, tổng hợp. Giúp giáo viên rút ra được kinh nghiệm thông qua việc trải nghiệm thực tế trên lớp học của mình để dạy tốt hơn cho những bài học khác. Bồi dưỡng cho giáo viên kĩ năng viết chuyên đề chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực cho giáo viên trong giai đoạn hiện nay. *Giúp học sinh: Nhận biết thế nào là bài toán có lời văn. (cấu tạo các phần của bài toán). 7 https://dethitiengviet.com/
Biết giải và trình bày giải bài toán có lời văn bằng các bước: đọc bài toán; đọc bài trả lời câu hỏi tóm tắt bài toán; nói và viết lời giải cho bài toán; viết phép tính cho bài toán bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ thích hợp; viết được đơn vịtính đúng sau phép tính; viết được đáp sốđúng. Rèn kĩ năng diễn đạt (phân tích đề toán), giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói và viết. Vậy làm thếnào để HS nắm được cách giải một cách chắc chắn chính xác? b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp Để dạy tốt môn toán nói chung, giải toán có lời văn nói riêng điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình môn Toán tiểu học năm 2000 cũng như chương trình sách toán VNEN được chia thành 2 giai đoạn chính: Giai đoạn các lớp 1, 2, 3 được coi là giai đoạn cơ bản Giai đoạn các lớp 4, 5 là giai đoạn tập sâu. Toán lớp 2 là giai đoạn cơ bản nên mục tiêu dạy học được cụ thể hoá thành những yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng ở các nội dung: Số học (số và phép tính): Các số trong phạm vi 1000; phép cộng và phép trừ các số trong phạm vi 1000; phép nhân và phép chia. Đại lượng và đo đại lượng: Độ dài; khối lượng; dung tích; thời gian; tiền Việt Nam. Các yếu tố hình học: Hình chữ nhật; hình tứ giác; đường thẳng; đường gấp khúc; tính độdài đường gấp khúc; tính chu vi hình tam giác hình tứ giác. Giải toán có lời văn: Các bài toán giải bằng một bước tính về cộng, trừ, nhân hoặc chia. Một số bài yếu tốđại sốđược tích hợp ở nội dung số học - Quy trình “giải toán có lời văn”thông thường qua 4 bước: + Đọc và tìm hiểu đề bài + Tìm đường lối giải bài toán 8 https://dethitiengviet.com/
+ Trình bày bài giải + Kiểm tra lại bài giải - Đọc và tìm hiểu đề toán Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu đựơc nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹđề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm, cho tặng, tất cả,...” hoặc nhiều hơn, ít hơn, bớt, dùng hết, tiêu thụđi, đã sử dụng, gấp số lần, kém còn lại,...” (giáo viên có thể kết hợp cho học sinh quan sát tranh vẽđể hỗ trợ giảng cho học sinh khắc sâu kiến thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từchính trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Giáo viên nên hướng học sinh tóm tắt bài toán bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng Trong thời gian đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng hỏi – đáp. Cô hỏi trò trả lời làm việc cá nhân tại nhóm “bài toán cho biết gì? Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cái bài toán cho biết bao giờnó cũng ởtrước chữ“hỏi” còn cái “bài toán hỏi gì? Bao giờ nó ở sau chữ hỏi. Giáo viên nên dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp trẻ ngầm phân tích đề toán. Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh hoặc sơ đồ hình vẽ minh họa để trả lời câu hỏi. Ví dụ: Cô có 40 bông hoa cô tặng các bạn 25 bông hoa. Hỏi cô còn lại bao nhiêu bông hoa ? Bài 3 Hoạt động thực hành trang 13 quyển 1B giáo viên có thể hỏi: -Bài toán cho biết lúc đầu cô giáo có bao nhiêu bông hoa? ( ... có 40 bông hoa) -Cô tặng các bạn bao nhiêu bông hoa? (...25 bông hoa) -Em có bài toán thế nào? (...) 9 https://dethitiengviet.com/
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc đề toán ởsách giáo khoa trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (hoa,...) lên khi đã chuẩn bị sẵn ở tranh; ngoài ra giáo viên có thể dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán. Thông thường có 3 cách tóm tắt đề toán như sau: *Tóm tắt bằng lời : Ví dụ1 : Cô có : 40 bông hoa Tặng : 25 bông hoa Cô còn:..... bông hoa? Ví dụ 2: Lan có : 35 que tính ? que tính Hà có: 43 que tính *Tóm tắt bằng sơ đồđoạn thẳng Ví dụ: Đoạn thẳng AB dài 15 cm, đoạn thẳng BC dài 5 cm. Hỏi đoạn AC dài mấy xăng – ti – mét? A 15cm B 5cm C ?cm *Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật... Hàng trên: ? ? bông hoa Hàng dưới: Dạng bài toán nhiều hơn, ít hơn giáo viên nên dùng mẫu vật để tóm tắt hoặc sơ đồđọn thẳng qua đó giúp học sinh dễ hình dung và hiểu bài nhanh đạt kết quả cao hơn 10 https://dethitiengviet.com/
Ví dụ: bài toán ít hơn: hàng trên có 7 quảcam, hàng dưới ít hơn hàng trên 2 quả cam. Hỏi hàng dưới có mấy quả cam? Cách tóm tắt như sau: Hàng trên: Hàng dưới: Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng. Có thể lồng “cốt câu” lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải hơn. Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt (Ví dụ 1) học sinh có thể viết ngay câu lời giải là : “Cô còn lại số bông hoa là:” hoặc “Số bông hoa cô còn lại là: hoặc : “Sau khi tặng cô còn số bông hoa là:”. Cần lưu ý trước đây người ta thường đặt dấu? lên trước các từnhư: quyển, quả,...Song làm như vậy thì hơi thiếu chuẩn mực về mặt Tiếng Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt cuối câu hỏi. Nếu tóm tắt bằng sơ đồđoạn thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng trước các từnhư quyển, quả,...cũng được vì các tóm tắt ấy không phải là những câu. Tuy nhiên học sinh thường có thói quen cứ thấy dấu... là điền số (dấu) vào đó nên giáo viên cần lưu ý các em là : Riêng trong trường hợp này (trong tóm tắt) thì dấu ... thay cho từ“ mấy” hoặc “ bao nhiêu” và bao nhiêu chính là cái chúng ta cần phải đi tìm ; các em sẽ phải tìm cho ra sốđó đểghi vào đáp số của bài giải chứ không phải để ghi vào chỗ ... trong tóm tắt. Nếu không thể giải thích được cho học sinh hiểu được ý trên thì chúng ta cứ quay lại lối củ tức là đặt dấu hỏi (?) ra đằng trước theo kiểu “Còn? quả” cũng được, không nên quá cứng nhắc. Khi giáo viên đã gỡđược nút thắt của các dạng tóm tắt rồi cho học sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải phép tính, đáp sốđể có một bài chuẩn mực ngay từ các tuần dầu của lớp 2 bài toán về cộng có nhớ và trừ có nhớ. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước miễn sao đến cuối kì trẻđọc và giải được bài toán là đạt yêu cầu. - Tìm cách giải bài toán 11 https://dethitiengviet.com/
- Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đềtoán đểxác định cái đã cho và cái phải tìm, chẳng hạn: + Bài toán cho biết gì? ( dàn gấc có 46 quả ) + Còn cho biết gì nữa ? ( trong đó có 19 quả chín ) + Bài toán hỏi gì? ( Hỏi còn bao nhiêu quảchưa chín ? ) Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết dàn gấc còn bao nhiêu quảchưa chín em làm phép tính gì? (Phép trừ) hoặc : “Muốn tìm số quả gấc chưa chín em tính thế nào? Em lấy số quả gấc trong vườn trừđi số quả chín thì còn lại số quảchưa chín; hoặc: “Trong vườn còn bao nhiêu quả gấc chưa chín ?” (27) Em tính thếnào đểđược 27?; ( 46 - 19 = 27). Yêu cầu học sinh viết bài giải ra vở hoặc phiếu học tập cô chuẩn bị sẵn: Ví dụ bài 4 trang 65 quyển Toán 1B Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp “ 27 này là 27 quả gấc chưa chín”, nên ta viết “quả gấc chưa chín” hoặc “quảchưa chín” vào trong dấu ngoặc đơn sau phép tính 46 – 19 = 27 (quả gấc chưa chín) Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn hình đểđếm ra kết quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn xác nhận kết quảlà đúng, xong cần hỏi thêm : “ Em tính thếnào?” ( 46 -19 = 27). Sau đó nhấn mạnh : “Khi giải toán em phải nêu được phép tính đểtìm ra đáp số (ởđây là 27). Nếu chỉ nêu đáp số thì chả phải là giải toán. 12 https://dethitiengviet.com/
- Sau khi học sinh đã xác định được phép tình nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn (thậm chí khó hơn nhiều) giáo viên khuyến khích học sinh vận dụng đặt lời giải sáng tạo mà vẫn giữđược nội dung bài toán phép tính và tính ra đáp số. Học sinh lớp 2, từđầu năm vào học toán có lời văn hầu như đa sốcác em đều gặp nhiều khó khăn giáo viên phải bắt đầu hình thành lại cơ bản các bước cứnhư thếquy trình mưa dầm thấm lâu, ngày nào các em cũng được học được cọ xát dần dần hình thành thói quen và giúp các em không bỡ ngỡ nữa. Thế nào là câu lời giải, vì sao phải viết câu lời giải? Giáo viên cần giải thích cách viết câu lời giải là cách đi giải bài toán. Để biết bài toán đó có bao nhiêu con gà nữa ta phải viết lơi giải rồi mới viết phép tính đơn vị tính và viết đáp số. Nếu không thể giải thích cho các em hiểu một cách thấu đáo thì học sinh sẻ viết phép tính và nộp bài. Vì vậy bước đầu hiểu và nắm được cách làm. Có thể dùng 1 trong các cách sau: Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từđầu (Hỏi) và cuối (mấy quả?) đề có câu lời giải : “Số quả cam có:” hoặc thêm từ“là” để có câu lời giải: “Số quả cam có là:” Cách 2: Đưa từ“quả cam” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ“Hỏi” và thêm từSố(ởđầu câu), là ở cuối câu đểcó : “Số quả cam có tất cả là:” Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt coi đó là “ từkhoá” của câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. Cách 4: Với những học sinh gặp khó khăn tôi đã cắt hoặc viết những từở câu hỏi bài toán giải rồi để lộn xộn, trong số câu hỏi đó tôi bỏ thêm một số từnhư từ “là” từ“số” từ“tất cả” để học sinh co thể dựa vào các từ có sẳn sắp xếp được lời giải theo yêu cầu của cô Ví dụ: Từ dòng cuối cùng của dòng tóm tắt : “Có tất cả:... quả cam?”. Học sinh có thể sắp được câu lời giải : “Số quả cam có tất cả là:”; có số quả cam là 13 https://dethitiengviet.com/
Cách 5: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Hỏi Mẹ có tất cả mấy quả cam?” để học sinh trả lời miệng: “Mẹ có tất cả 17 quảcam” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): cách này giáo viên hạn chế vì chỉ khi nào lớp không hiểu mới đưa ra giảng trước lớp còn lại giáo viên nên khai thác triệt để hoạt động độc lập của từng học sinh Mẹ có tất cả số quả cam là: 9 + 8 = 17 (quả cam) Cách 6: Sau khi học sinh tính xong : 9 + 8 = 17 (quả cam) giáo viên chỉ vào 17 và hỏi : “17 quả cam ởđây là số quả cam của nhà ai?” (là số quả cam mẹ có tất cả) từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “ Số gà nhà An có tất cảlà “ v.v... Ởđây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác nhau sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất không nên bắt buộc học sinh nhất nhất phải viết theo 1 kiểu. - Trình bày bài giải Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy thực tế hiện nay các em học sinh lớp 2 trình bày bài giải còn rất hạn chế kể cả học sinh khá giỏi. Việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện được yêu cầu này, thì trước tiên người dạy cần tuân thủcách trình bày theo hướng dẫn quy định. Từ: “Bài giải” lùi vào 5 ô vuông Câu lời giải cách lề khoảng 2 đến 3 ô vuông, chữcái đầu câu viết hoa, cuối câu có dấu hai chấm. Phép tính viết viết lùi vào 3 ô đến 4 ô vuông, cuối phép tính có ghi đơn vị tính và để trong dấu ngoặc đơn ( ). 14 https://dethitiengviet.com/
Đáp số lùi vào 5 ô vuông, sau tiếng số có dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính không còn viết trong dấu ngoặc đơn nữa. Ví dụ Bài 9 cộng với một số 9 +5: Bác An có 9 con gà, bác mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà? Với bài này, ta trình bày như sau: Bài giải Nhà bác An có tất cả số con gà là: 9 + 4 = 13 (con gà ) Đáp số: 13 con gà Nếu lời giải ghi: “Số gà nhà Bác An là: “thì phép tính có thể ghi: “9 + 4 = 13 (con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ “gà”). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm mà gặp phải các từ khó như “ thuyền, quyển,...” thì có thể lược bớt danh từ cho nhanh cũng được song ở đáp số nên viết đầy đủ “con gà”; cách viết phép tính với các danhtừsố đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh nhưng giáo viên cần hướng dẫn bây giờ cần tập dần viết đầy đủ lời của bài toán giải thì kết quả sẽ tốt hơn. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau: Viết thêm đơn vị tính vàosau mỗi sốhoặc cả số và kết quả 9 con gà + 4 = 13 con gà 9 + 4 con gà =13 con gà 9 con gà + 4 con gà = 13 Giáo viên cần đến hỗ trợ kịp thời, hướng dẫn học sinh cách giải đúng một cách khoa học. Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 13, nghĩa là chỉđược viết 9 + 4 = 13 thôi. Song vì các đơn vịcũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép 15 https://dethitiengviet.com/
tính giải nên vẫn phải tìm cách đểđưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 13 đó. Có thể hiểu rằng chữ"con gà” viết trong dấu ngoặc ởđây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữnghĩa với số 13, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ vềtoán học với số 13. Do đó, nên hiểu: 9 + 4 = 13 (con gà) là cách viết của một câu văn hoàn chỉnh như sau: "9 + 4 = 13, ởđây 13 là 13 con gà". Như vậy cách viết 9 + 4 = 13 (con gà) là một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài giải toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: "Đáp số: 13 con gà" mà không cần ngoặc đơn. Kiểm tra lại bài giải Học sinh ở lớp thường có thói quen khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen, kĩ năng kiểm tra lại bài làm trong học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, vềđáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác nhau để bài làm có cái sáng tạo hay mà vẫn giữđúng đáp án *Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn" Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi dạng, mỗi tiết về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích cực chủđộng của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tựđặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tựđặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài toán. Ví dụ bài toán sau Hướng dẫn học sinh tự xây dựng một đề toán mới. Việc cho học sinh tự xây dựng đề toán vừa giúp các em phát triển tư duy độc lập, vừa giúp các em phát triển tính năng sáng tạo của tư duy. Đây là biện pháp gây chú ý và hứng thú học tập giúp cho các em hiểu rõ cấu trúc, cách nghi nhớ dạng bài, đi sâu tìm hiểu thực tế và phát triển ngôn ngữ, thông qua viêc tự nêu và giải quyết vấn đề, phát huy tính tích cực, vai trò trung tâm của các em trong quá 16 https://dethitiengviet.com/
trình dạy học. Có nhiều cách để giúp học sinh tự xây dựng một đề toán giáo viên cần nêu vấn đề, yêu cầu và định hướng từ thấp đến cao, từ dễđến khó. Ví dụ: Cho biết tranh và dữ liệu nền tìm cách nêu bài toán theo giải bài toán. Học sinh tựnghĩ ra đề toán và giải. Với hai đề trên ta cần chuẩn bị cho tranh ảnh to rõ gắn vào bảng lớp yêu cầu cả lớp quan sát tranh và suy nghĩ đưa ra đề toán của riêng mình. Sẻ có rất nhiều đề toán được đưa ra giáo viên tham khảo giúp đỡ hỗ trợ học sinh kịp thời nhằm định hướng đúng với nội dung tranh vẽ. xong yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước phân tích đề, tìm cái đã cho cái bài toán hỏi, đặt lời giải thực hiện cách tính Ví dụ: Đềtoán đưa ra nhiều số liệu. Học sinh tìm số liệu thay thế rồi giải Ví dụ: Lớp 2A1 có ….học sinh chia thành….tổ. Hỏi mỗi tổ có bao nhiêu học sinh? 17 https://dethitiengviet.com/
Ví dụ: Đềtoán không đưa ra những câu hỏi. Học sinh tựđặt câu hỏi cho đề toán và giải. Ví dụ: “Có 30 quyển sách để thành 5 chồng. Em hãy đặt câu hỏi cho bài toán rồi giải. Học sinh sẽđặt Hỏi mỗi chồng bao nhiêu quyển sách? *Cho học sinh tựnghĩ ra đề toán và giải. Ví dụ: 37 - 3 = 34. Hãy đặt đề toán có cách giải như phép tính. Học sinh sẽ đạt và đọc to cho bạn cùng bàn nhóm nhận xét cách đặt bài toán và cách sáng tạo của từng học sinh. Khuyến khích học sinh nêu đề toán sát với đời sống sinh hoạt hằng ngày nhằm tạo cho học sinh kĩ năng quan sát *Đặt một đềtoán tương tự với đề mẫu. Trong phương pháp học sinh tự xây dựng đềtoán các em thường mắc các khuyết điểm như: các số liệu chọn thiếu chính xác, xa thực tế. Giáo viên cần giúp các em rèn luyện tư duy, tính thực tế. Ví dụ: Hãy đặt một đềtoán tương tựnhư bài dưới đây và giải. “Đội Một trồng được 53 cây, đội Hai trồng được nhiều hơn đội Một 14 cây. Hỏi đội Hai trồng được bao nhiêu cây ? *Một số bài toán nâng cao cho học sinh khá giỏi Việc bồi dưỡng học sinh khá giỏi trong một tiết học,một dạng bài là không thể thiếu được đối với giáo viên có tâm huyết trong nghề dạy học. Vừa là bồi dưỡng được cho học sinh đồng thời dạy đểphân hóa được cho đối tượng học sinh khá giỏi, phát huy tư duy và năng lực giải toán có lời văn đối với học sinh khá giỏi. Bởi vậy song song với việc dạy trong chương trình tôi dành thời gian buổi chiều trong các tiết hỗ trợ môn toán có thểtùy theo đối tượng của lớp mình để ra một số đề nâng cao bồi dưỡng học sinh khá giỏi và nâng dần lên từ rễđến khó. Từ chỗ học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản rồi thì phát triển thêm cho các em cũng không có gì là khó. Tôi thêm một số dạng ởbài này như sau: Ví dụ1: “Hùng và Dũng có 16 viên bi. Nếu Hùng có thêm 3 viên bi thì tổng số bi của hai bạn là bao nhiêu?. Ở ví dụ này học sinh có thể giải được hoàn toàn khi đã nắm chắc được kiến thức. Ví dụ 2: Nhà bạn Nam nuôi 38 con vịt và ngan, trong đó có 18 con ngan. Hỏi nhà bạn Nam nuôi bao nhiêu con vịt ? 18 https://dethitiengviet.com/
Giáo viên lưu ý cho học sinh ở bài tập này yêu cầu tìm số con vịt. Vì vậy khi trình bày bài giải như sau: Bài giải Có số con vịt là: 38 – 18 = 20 ( con) Đáp số: 20 con vịt Ví dụ 3: Giải bài toán theo tóm tắt sau: Tóm tắt: A 9 cm B 3 cm C ? cm Dạng bài toán này học sinh dễ nhầm lẫn đi tìm cảhai đoạn thẳng. Vì vậy cần giúp các em hiểu được độdài đoạn thẳng AC chính là độdài đoạn thẳng AB và đoạn thẳng BC ngoài ra kí hiệu tóm tắt là dấu hiệu nhận biết bài toán hỏi gì. Ởđây là tìm độdài đoạn thẳng chứ không phải tìm sốđoạn thẳng. Bài toán sẽ giải như sau: Bài giải Độdài đoạn thẳng AC là: 9 + 3 = 12 ( cm) Đáp số: 12 cm +Đọc kĩ đề bài. Đây là bước nghiên cứu đầu tiên giúp học sinh có suy nghĩ ban đầu về ý nghĩa bài toán. Nắm được nội dung bài toán và đặc biệt cần chú ý đến câu hỏi của bài. Do đó, tôi đã yêu cầu học sinh cầm bút chì và thước gạch chân dưới những dữ kiện quan trọng của bài toán: “Hãy gạch một gạch dưới những cái đã cho”;“Hãy 19 https://dethitiengviet.com/
gạch hai gạch dưới câu hỏi của đềtoán”.Như vậy tất cả học sinh cùng làm việc, em nào không chịu làm việc giáo viên đã biết và nhắc nhở. +Xây dựng, thiết lập mối liên hệ giữa hai dữ kiện đã cho của bài toán. Tìm cách diễn đạt nội dung của bài bằng ngôn ngữ kí hiệu toán học. Tóm tắt đầu bài toán hoặc minh họa với sơ đồ hình vẽ bằng cách ghi dữ kiện điều kiện và câu hỏi của bài toán dưới dạng cô đọng, ngắn gọn nhất. Ví dụ 4: Bài 5 (trang 43 Hướng dẫn học toán 2 VNEN) “Nhà Lan nuôi một con bò sữa. Ngày thứ nhất con bò này cho 33l sữa. Ngày thứhai nó cho ít hơn ngày thứ nhất 7l sữa. Hỏi ngày thứ hai con bò cho bao nhiêu lít sữa ? -Phân tích nội dung +Học sinh đọc đề toán Giáo viên đọc hai câu lệnh làm việc + Hãy gạch một gạch dưới cái đã cho + Hãy gạch hai gạch dưới câu hỏi của bài toán Sau khi học sinh đã thực hiện theo hai câu lệnh làm việc của giáo viên, giáo viên yêu cầu một số học sinh trình bày phân tích nội dung để hiểu rõ nội dung đề toán. 33l sữa Ngày thứ nhất: 7l sữa …………. Ngày thứ hai: …l sữa ? Lập kế hoạch giải: Suy nghĩ để tìm ra cách trả lời các câu hỏi của bài toán cần biết gì ? Dùng phép tính gì ? Suy luận từ các số, điều kiện đã có, có thể biết gì ? Có thể sử dụng phép tính gì ? Trên cơ sởđó lập kế hoạch để giải bài toán. +Thực hiện cách phép tính theo kế hoạch để tìm ra kết quảđúng của bài toán. Mỗi bước của phép tính đều phải được kiểm tra lại cho đúng thử lại đáp số vừa tìm được, em cách giải, lời 20 https://dethitiengviet.com/
giải đáp sốcó đúng câu hỏi cua bài hay đã phù hợp với điều kiện bài toán hay chưa? Trình bày bài giải: Bài giải Ngày thứ hai con bò cho sốl sữa là: 33 - 7 = 26 (l sữa) Đáp số: 26 l sữa Từcách hướng dẫn học sinh giải theo cách trên, học sinh đã nắm chắc được các bước giải và trình tự giải bài toán để học sinh tiến hành đến việc học và giải bài toán tiếp theo phức tạp hơn một cách dễ dàng. Tóm lại: Giải toán có lời văn đòi hỏi các em phải đọc kỹđềbài và xác định được dữ kiện và yêu cầu bài toán, biết tóm tắt bài toán rồi suy luận để tìm cách giải đúng. Do đó tôi hướng dẫn các em khi làm bài phải thực hiện tốt các bước theo sơ đồ sau: Đọc kĩ nội dung đề toán Tìm, gạch chân các dữ kiện bài toán –xác định đơn vị đi kèm kết quả Tóm tắt bài toán Dùng sơ đồ Dùng lời văn Tuỳ từng dạng bài mà giáo viên nghiên cứu để lựa chọn cách thiết kế bài Căn cứ vào tóm tắt suy luận tìm cách giải bài toán giảng sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình để giúp các em hiểu được đề bài toán và biết cách giải bài toán dẫn đến kết quả chính xác. Tùy theo từng loại bài mà giáo viên sẽ củng cố cho các em những kiến thức đã học một cách 21 https://dethitiengviet.com/
có hệ thống khoa học và logic. Từđó các em sẽ nắm vững các kiến thức hơn và biết áp dụng làm các bài tập thực hành một cách thành thạo kết quả chính xác góp phần nâng cao hiệu quả tiết dạy. *Một số dạng bài khi dạy cho đối tượng HS thuận lợi và HS không thuận lợi. Bài HS không thuận lợi HS thuận lợi -HS đọc, hiểu được tóm tắt, biết viết phép tính thích hợp. -HS đọc, hiểu được tóm tắt, biết viết phép tính thích hợp. Bài 4/ trang 6 -HS biết diễn đạt tóm tắt bài toán bằng lời. --HS tìm được câu hỏi phù hợp với bài toán. -HS tìm được câu hỏi phù hợp với bài toán. Bài 5/ 45 -HS lựa chọn các câu hỏi khác nhau phù hợp với bài toán. -HS viết nói được 3 câu trả lời a, b, c đúng kết quảlà đạt - Câu trả lời có sự sắp xếp lại các từđể có nhiều câu trả lời khác nhau. Theo cách hỏi xuôi ngược. Giải được bài toán bằng hai cách - Biết viết phép tính và đáp số. Bài 5/ 53 - Trình bày bài giải cân đối với vở. *Dự kiến những khó khăn HS thường mắc phải và cách khắc phục: Khó khăn HS thường mắc phải Cách khắc phục -Xác định cái đã cho và cái phải tìm. -Yêu cầu HS gạch một gạch dưới những điều đã cho trong bài toán, gạch hai gạch dưới bài toán hỏi. HS lúng túng khi xác định phần quan trọng để viết tóm tắt - Xác định cấu trúc bài toán gồm hai phần. Phần cho biết và phần hỏi. Phần cho biết gồm hai yếu tố. Phần cho biết: Buổi sáng bán 28 kg gạo, bán thêm 13 kg gạo VD: Một cửa hàng buổi sáng bán 28 kg gạo, bán thêm 13 kg gạo. Hỏi cửa hàng đó được tất cả bao nhiêu kg gạo? Phần hỏi: Hỏi cửa hàng đó được tất cả bao nhiêu kg gạo? 22 https://dethitiengviet.com/
Tóm tắt Bán: 28 kg gạo Bán thêm: 13 kg gạo Bán tất cả: ...kg gạo? Không hiểu các thuật ngữ toán học như: thêm, và, chạy đến, mua thêm....... Hỏi tất cả? Tổ chức cho các em đọc kỹđề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm , và , tất cả, … ” hoặc “bớt, bay đi, cho, tặng, ăn mất, còn lại , …” (có thể kết hợp quan sát tranh vẽđể hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài Hoặc bớt, cho đi, ăn hết, . . . Hỏi còn lại? Gặp khó khăn khi viết câu lời giải -Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi)và từ (mấy, bao nhiêu) thay bằng thay từ "số" để có câu lời giải. VD 1: nhà An nuôi 18 con gà, mẹ đem bán 13 con gà. Hỏi Nhà An còn lại mấy con gà? VD1: Nhà An còn lại số con gà là:; VD2: Nhà An có tất cả số con gà là:; Vd: Số gà nhà An còn lại là:; vd: Tất cả số con gà nhà An còn lại sau khi bán là: VD 2: Nhà An có 9 con gà, mẹ mua thêm 3 con gà. Hỏi nhà An có tất cả bao nhiêu con gà? -Đưa từở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ“Hỏi” và thêm từ Số (ởđầu câu), “là” ở cuối câu VD1: Số con gà nhà An còn lại là : VD2: Số con gà nhà An có tất cả là : -Dựa vào dòng cuối cùng của câu tóm tắt coi đó là “từkhóa” của câu lời giải rồi thêm thắt chút VD1: Còn lại số con gà là : VD2: Có tất cả số con gà là : Quy định cách trình bày bài giải theo 3 bước ngay từđầu tạo thói quen cho HS: Trình bày thiếu các phần của bài giải Bước 1: Viết câu lời giải Bước 2: Viết phép tính Bước 3: Viết đáp số Bài toán giải có nội dung tương tự Giáo viên ngoài thực hiện các bước còn 23 https://dethitiengviet.com/
giống nhau về số liệu, sự vật. Những khác nhau về dạng phải hướng học sinh so sánh nội dung hai bài toán này giống và khác nhau cái gì. Muốn giải đúng các em học sinh chú ý đến dữ liệu nào c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Kết hợp với nhiều phương pháp dạy học để dẫn dắt học sinh tới kiến thức cần đạt. Tạo điều kiện cho học sinh có thói quen trao đổi kiểm tra lẫn nhau. Tổ chức cho học sinh khá giỏi giúp đỡ các em yếu kém về học tập, vềphương pháp vận dụng kiến thức. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh của các em học yếu để báo cáo tình hình học tập của các em. Kết hợp với phụhuynh động viên, đôn đốc, nhắc nhở giúp các em đạt kết quả tốt lên. Mặt khác, để cho chất lượng của các tiết dạy có hiệu quả và đạt kết quả cao thì người giáo viên phải: Luôn luôn tìm tòi học hỏi, sáng tạo để tiết dạy của mình luôn lôi cuốn học sinh, chú trọng đến việc rèn kĩ năng sống cho các em, phải biết kết hợp gợi niềm say mê yêu thích môn học của học sinh.Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tổ chức dạy học độc lập, dạy phân hóa đối tượng học sinh, dạy mở rộng và nâng cao ở buổi thứ hai.Thực hiện tốt việc quản lí lớp học bằng biện pháp tích cực. Dạy dỗ các em với tấm lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng giúp đỡ các em có hoàn cảnh khó khăn trong học tập, các em học hòa nhập,luôn kiên trì, nhẫn nại không nóng nảy và quan trọng nhất là tạo niềm tin, tình yêu thương cho học sinh. Làm cho các em cảm nhận được: “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Sau khi tiến hành 1 số giải pháp: “Một số biện pháp giúp học sinh vận dụng tốt cách giải các bài toán có lời văn trong môn Toán lớp 2A1 trường Tiểu học Lê Quý Đôn năm học 2019 –2020”. Tôi ra đề cho học sinh làm bài như sau: 24 https://dethitiengviet.com/
Nhà bác Lan nuôi 56 con gà, trong đó có 39 con gà mái. Hỏi đàn gà nhà bác Lan đó có tất cả bao nhiêu con gà trống? Đây là bảng kết quả khảo nghiệm sau khi học xong tuần 19: Viết đúng câu Viết đúng phép Viết đúng đáp Giải đúng cả 3 lời giải tính số bước trên Sĩ số SL % SL % SL % SL % 25 20 80 25 100 24 96 23 92 Nhìn vào bảng tổng hợp trên ta thấy hầu hết các em nhìn vào bài toán biết trình bày bài giải, viết được phép tính đúng, biết ghi đáp sốđúng đạt kết quảtương đối cao và đồng đều các em tư duy được nhiều câu lời giải khác nhau, số học sinh còn sai sót có giảm rõ rệt so với kết quả khảo sát đầu năm, đồng thời học sinh rất thích học dạng toán này, đây là kết quảđáng mừng. Những biện pháp trên đã thật sựđem lại cho lớp tôi kết quả thật đáng khích lệ. Trong giảng dạy còn biết bao khó khăn vướng mắc, tôi hi vọng rằng với những biện pháp trên phần nào giúp chúng ta tháo gỡđược khó khăn, vướng mắc ấy. 25 https://dethitiengviet.com/
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Kết luận: Việc dạy học giải toán có lời văn là vấn đề quan trọng dạy học toán nói chung và dạy học ở dạng này nói riêng. Tôi thấy việc dạy cho học sinh giải toán có lời văn thành thạo không phải là khó song cũng không phải là dễ, làm cho học sinh hiểu được mục đích quan trọng của nó đó là cơ sởban đầu cho việc tiếp tục học tập của các lớp trên. Đểđạt được hiệu quả cao trong việc dạy học giải toán có lời văn giáo viên cần làm tốt các vấn đề sau: Phải có cái nhìn tổng quát vềchương trình,đặc biệt là phần giải toán có lời văn gồm những dạng nào. Để từđó xây dựng bài giảng trên cơ sở khắc phục những nhược điểm, kế thừa và phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học.Khi dạy nên tổ chức cho học sinh tiến hành các hoạt động học tập “bằng tay” đòi hỏi mỗi học sinh tựsuy nghĩ tìm tòi. Nhờđó mà giáo viên có thể biết được năng lực của từng học sinh,cũng như các em có chịu suy nghĩ (làm việc) hay không qua hoạt động “băng tay” các em. Nguồn thông tin phnr hồi từ học sinh này sẽ giúp cho giáo viên tiếp tục quá trình dạy học một cách thuận lợi. Hình thức dạy học này thúc giục 100% học sinh suy nghĩ (làm việc) để tự mình chiếm lĩnh kiến thức mới.Khi lập kế hoạch phải dựtính trước được lỗi học sinh thường mắc phải, từđó có cách chữa lỗi. Trong giờ học không nên áp dụng nặng nề, không nên gay gắt với những học sinh thường mắc lỗi, nhẹnhàng để học sinh thấy yên tâm.Đối với những bài có cấu trúc giống nhau trong quá trình giải, học sinh dễ nhầm lẫn máy móc giữa bài này với bài khác. Vì vậy giúp các em so sánh các bài toán mà nội dung có điểm giống nhau nhưng các câu hỏi khác nhau nên phải giải bằng sốlượng phép tính khác nhau.Giúp học sinh hiểu bài bằng cách giao việc cho các em thông qua gợi ý hoặc lập hệ thống câu hỏi. Do đó yêu cầu giáo viên phải nắm chắc các dữ kiện của đề bài, phải tóm tắt đề toán theo cách gọn, dễ hiểu. Đưa ra cách giải và trình tựcác bước, các phép tính phải chính xác, khoa học - chú ý kiểm tra kết quả của học sinh và chỉhướng dẫn khi các em thật sự khó khăn, tuyệt đối không làm thay học sinh.Cần nghiên cứu kĩ chương trình để nắm 26 https://dethitiengviet.com/
bắt được ý đồ của sách giáo khoa, người soạn sách…nhằm giúp học sinh tìm đúng cách và giải đểgiáo viên tìm đúng phương pháp dạy tốt. Như vậy với cách hướng dẫn tỉ mỉ tận tình nói trên cùng với bài giảng được thiết kế hợp lý với nhiều hình thức tổ chức dạy học phong phú, đa dạng, kết hợp được nhiều phương pháp dạy học phù hợp góp phần kích thích cho học sinh lòng ham thích học môn Toán. Tạo không khí học tập sinh động, sôi nổi giúp các em tiếp thu bài một cách có hệ thống và nhớ lâu; kết hợp rèn được kỹnăng tính toán và giải bài toán có lời văn theo từng dạng một cách nhanh, kết quả chính xác, tiết dạy thành công, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Trên đây là một số kinh tôi rút ra từ thực tế giảng dạy phần giải toán có lời văn. Nhưng với xu thế phát triển của giáo dục ngày nay, trong quá trình dạy học bản thân phải còn cố gắng nhiều trong giảng dạy để theo kịp với xu thế mới của giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên với sốlượng học sinh thực nghiệm ít, thời gian nghiên cứu ngắn nên đề tài không tránh khỏi những sai sót rất mong được sựđóng góp của đồng nghiệp đểphương pháp dạy học của bản thân ngày càng tiến bộ. 2. Kiến nghị: Tôi mong các cấp lãnh đạo, ban ngành giáo dục: cần có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao các chuyên đềcho giáo viên để bổsung phương pháp dạy học sinh, đáp ứng nhu cầu dạy học. Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp. Duy trì tốt việc thao giảng, dự giờgiáo viên trong trường. Các cấp lãnh đạo thường xuyên, quan tâm hơn nữa tới giáo viên và học sinh, tạo mọi điều kiện để các em có thể thực hiện tốt quyền được học. Chắc chắn rằng giải pháp tôi đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân giúp, cho việc giảng dạy và học tập đạt hiệu quả tốt nhất góp phần đổi mới phương pháp dạy học thành công trong giáo dục hiện nay. Xin chân thành cảm ơn sựđóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và tất cả quý thầy cô. Chúc sức khoẻ và thành công. Bình Tân, ngày 28 tháng 2 năm 2020 Người viết 27 https://dethitiengviet.com/
Thái Thị Hòa Bình TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách hướng dẫn học Toán 2 mô hình VNEN 2. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 2 (Sách Giáo Viên) 3. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng (Lớp 2) 4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học tác giả chủ biên Nguyễn Đức Hùng 5. Vở bài tập toán của học sinh lớp 2. 6. Chuyên đề giáo dục Tiểu học 7. Bộ sách Toán Tiểu học nâng cao- NXB giáo dục. 28 https://dethitiengviet.com/
MỤC LỤC Nội dung Trang I. MỞĐẦU 1 - 3 1: Lý do chọn đề tài 1 - 2 2: Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2 3: Đối tượng nghiên cứu 2 4: Giới hạn phạm vi nghiên cứu 2 5: Phương pháp nghiên cứu 2 - 3 II. PHẦN NỘI DUNG 4 - 25 1:Cơ sở lý luận 4 2: Thực trạng nghiên cứu 4 -7 3: Nội dung và hình thức của giải pháp 7 - 8 a. Mục tiêu của giải pháp 7 -8 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp 8 - 24 c. Mối quan hệ giữa các giải pháp 24 d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 24 -25 III. PHẦN KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 26 - 27 1: Kết luận 26 - 27 2: Kiến nghị. 27 TÀI LIỆU THAM KHẢO. 28 29 https://dethitiengviet.com/