250 likes | 260 Views
Ngu00e0y xu1eeda ngu00e0y xu01b0a, u1edf xu1ee9 Mu01b0u1eddng Bi xuu1ea5t hiu1ec7n mu1ed9t u0111u00f4i vu1ee3 chu1ed3ng cao lu1edbn khu00e1c thu01b0u1eddng. Hu1ecd u0111u1ee9ng cao hu01a1n nu0103m lu1ea7n u0111u1ec9nh nu00fai cao nhu1ea5t. Ngu01b0u1eddi Mu01b0u1eddng hay gu1ecdi hu1ecd lu00e0 u00f4ng u0110u00f9ng, bu00e0 u0110u00f9ng, nghu0129a lu00e0 u00f4ng bu00e0 khu1ed5ng lu1ed3.<br>https://giaoantieuhoc.com/
E N D
BÀI 31 BÀI 31 • SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÙNG ĐỌC TIẾT 1 – 2
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG Ngày xửa ngày xưa, ở xứ Mường Bi xuất hiện một đôi vợ chồng cao lớn khác thường. Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Người Mường hay gọi họ là ông Đùng, bà Đùng, nghĩa là ông bà khổng lồ. Hồi ấy, đất thì cao thấp, lồi lõm. Cây cối hoang dại mọc chằng chịt. Nước thì chảy từ lòng đất, ngập lênh láng khắp nơi. Thấy vậy, ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cánhđồngbằngphẳng, lấychỗchodân ở vàcàycấy. ÔngĐùngbànvới vợ làm một con đường dẫn nước đi, tránh để nước tràn lênh láng. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng hì hụi vét đất đằng sau. Họ làm việc suốt ngày đêm, cùng trò chuyện vui vẻ. Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay. Xong mọi việc, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới biết: Do vét đất ban đêm, không nhìn rõ, dòng sông đã không thẳng. Nơi chưa được vét, đất đá cản trở dòng chảy và tạo thành thác ghềnh. Vì thế, sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ. (Theo Truyện cổ dân tộc Mường) ĐỌC
Luyệnđọctừngữ ĐỌC lênh láng,lồilõm,lom khom,thácghềnh, ngoằnngoèo,tròchuyện
Luyệnđọccâu ĐỌC Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay. Vì thế, sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ.
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG Ngày xửa ngày xưa, ở xứ Mường Bi xuất hiện một đôi vợ chồng cao lớn khác thường. Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Người Mường hay gọi họ là ông Đùng, bà Đùng, nghĩa là ông bà khổng lổ. Hồi ấy, đất thì cao thấp, lồi lõm. Cây cối hoang dại mọc chằng chịt. Nước thì chảy từ lòng đất, ngập lênh láng khắp nơi. Thấy vậy, ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cánhđồngbằngphẳng, lấychỗchodân ở vàcàycấy. ÔngĐùngbànvới vợ làm một con đường dẫn nước đi, tránh để nước tràn lênh láng. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng hì hụi vét đất đằng sau. Họ làm việc suốt ngày đêm, cùng trò chuyện vui vẻ. Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay. Xong mọi việc, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới biết: Do vét đất ban đêm, không nhìn rõ, dòng sông đã không thẳng. Nơi chưa được vét, đất đá cản trở dòng chảy và tạo thành thác ghềnh. Vì thế, sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ. (Theo Truyện cổ dân tộc Mường) ĐỌC 4
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG Ngày xửa ngày xưa, ở xứ Mường Bi xuất hiện một đôi vợ chồng cao lớn khác thường. Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Người Mường hay gọi họ là ông Đùng, bà Đùng, nghĩa là ông bà khổng lổ. Hồi ấy, đất thì cao thấp, lồi lõm. Cây cối hoang dại mọc chằng chịt. Nước thì chảy từ lòng đất, ngập lênh láng khắp nơi. Thấy vậy, ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cánhđồngbằngphẳng, lấychỗchodân ở vàcàycấy. ĐỌC
Ra tay: Bắtđầulàmđểtỏrõkhảnăng, tàitrícủamình Chằngchịt: (Câycối) đanvàonhaudàyđặcvàkhôngtheohànglốinhấtđịnh
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG ÔngĐùngbànvới vợ làm một con đường dẫn nước đi, tránh để nước tràn lênh láng. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng hì hụi vét đất đằng sau. Họ làm việc suốt ngày đêm, cùng trò chuyện vui vẻ. Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay. ĐỌC Hìhụi: Dángvẻcặmcụi, làmviệcgìđómộtcáchkhónhọc, kiênnhẫn
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG Xong mọi việc, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới biết: Do vét đất ban đêm, không nhìn rõ, dòng sông đã không thẳng. Nơi chưa được vét, đất đá cản trở dòng chảy và tạo thành thác ghềnh. Vì thế, sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ. ĐỌC 4
Ghềnh: chỗ lòng sông bị thu hẹp và nông, có đá nằm chắn ngang, làm nước dồn lại và chảy xiết.
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG Ngày xửa ngày xưa, ở xứ Mường Bi xuất hiện một đôi vợ chồng cao lớn khác thường. Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Người Mường hay gọi họ là ông Đùng, bà Đùng, nghĩa là ông bà khổng lổ. Hồi ấy, đất thì cao thấp, lồi lõm. Cây cối hoang dại mọc chằng chịt. Nước thì chảy từ lòng đất, ngập lênh láng khắp nơi. Thấy vậy, ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cánhđồngbằngphẳng, lấychỗchodân ở vàcàycấy. ÔngĐùngbànvới vợ làm một con đường dẫn nước đi, tránh để nước tràn lênh láng. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng hì hụi vét đất đằng sau. Họ làm việc suốt ngày đêm, cùng trò chuyện vui vẻ. Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay. Xong mọi việc, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới biết: Do vét đất ban đêm, không nhìn rõ, dòng sông đã không thẳng. Nơi chưa được vét, đất đá cản trở dòng chảy và tạo thành thác ghềnh. Vì thế, sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ. (Theo Truyện cổ dân tộc Mường) LUYỆN ĐỌC LẠI 4
TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 1. ÔngĐùng, bàĐùngcóđiểmgìkhácthườngvềngoạihình? ÔngĐùng, bàĐùngcaolớnkhácthường. Họđứngcaohơnnămlầnngọnnúicaonhất.
TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 2. KểlạinhữngviệcôngĐùng, bàĐùngđãlàmkhichứngkiếncảnhđấthoang, nướcngập? Ôngbàđãnhổcây, san đất. TiếpđóôngĐùnglomkhomdùngtaybớiđấtđằngtrước, bàĐùnghìhụivétđấtđằngsaulàmmột con đườngdẫnnước.
TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 3.ViệclàmcủaôngbàĐùngđãđemlạikếtquảnhưthếnào? ÔngbàĐùnglàmthànhcánhđồngbằngphẳng, rộngrãi, lấychỗchodân ở vàcàycấy. Còn con đườngôngbàđàobới, nướcchảythànhdòng, vượt qua đồinúi, đổvềxuôitạothành con sôngĐà.
TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 4. Theo emôngĐùng, bàĐùngcónhữngphẩmchấttốtđẹpnào? Khôngngạivấtvả Chămchỉ Chịukhó Xảthânvìcộngđồng Thông minh
TRẢ LỜI CÂU HỎI Câu 5. Câuchuyệnđãgiảithíchđiềugìvề con sôngĐàngày nay? Câuchuyệnđãgiảithíchvềđặcđiểmngoằnngoèo, cónhiềuthácghềnhcủasôngĐàngày nay.
SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG, BÀ ĐÙNG Ngày xửa ngày xưa, ở xứ Mường Bi xuất hiện một đôi vợ chồng cao lớn khác thường. Họ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Người Mường hay gọi họ là ông Đùng, bà Đùng, nghĩa là ông bà khổng lổ. Hồi ấy, đất thì cao thấp, lồi lõm. Cây cối hoang dại mọc chằng chịt. Nước thì chảy từ lòng đất, ngập lênh láng khắp nơi. Thấy vậy, ông Đùng, bà Đùng liền ra tay. Chỉ một ngày, ông bà đã nhổ cây, san đất, làm thành cánhđồngbằngphẳng, lấychỗchodân ở vàcàycấy. ÔngĐùngbànvới vợ làm một con đường dẫn nước đi, tránh để nước tràn lênh láng. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng hì hụi vét đất đằng sau. Họ làm việc suốt ngày đêm, cùng trò chuyện vui vẻ. Thế rồi, theo con đường ông bà Đùng đào bới, nước đã chảy thành dòng, vượt qua đồi núi, đổ về xuôi. Đó chính là con sông Đà ngày nay. Xong mọi việc, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới biết: Do vét đất ban đêm, không nhìn rõ, dòng sông đã không thẳng. Nơi chưa được vét, đất đá cản trở dòng chảy và tạo thành thác ghềnh. Vì thế, sông Đà mới ngoằn ngoèo, có tới “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh” như bây giờ. (Theo Truyện cổ dân tộc Mường) LUYỆN ĐỌC LẠI 4
BÀI 31 BÀI 31 • SỰ TÍCH ÔNG ĐÙNG BÀ ĐÙNG