1 / 19

Seminar Một số kháng nguyên quan trọng

Mu00e1uu00a0con ngu01b0u1eddi u0111u01b0u1ee3c chia lu00e0m nhiu1ec1uu00a0nhu00f3mu00a0- du1ef1a theo mu1ed9t su1ed1 chu1ea5tu00a0cacbohydratu00a0vu00e0u00a0proteinu00a0u0111u1eb7c thu00f9 tru00eanu00a0hu1ed3ng cu1ea7u. <br>https://www.dethimau.vn/

FaeFlatley
Download Presentation

Seminar Một số kháng nguyên quan trọng

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁPKHOA : SP KHTNLỚP ĐHSSINH21-L2 CHỦ ĐỀ 9 MỘT SỐ KHÁNG NGUYÊN QUAN TRỌNG GVHD: LÊ UYỂN THANH

  2. THÀNH VIÊN TRONG NHÓM TRẦN THỊ HỒNG THÚY 2. NGUYỄN THỊ ÁNH NGỌC

  3. I. MỞ ĐẦU II. NỘI DUNG: 1. Kháng nguyên nhóm máu (Hệ ABO, Hệ Rhesus) 2. Kháng nguyên vi sinh vật. 3. Kháng nguyên polypeotid tổng hợp III. KẾT LUẬN

  4. Video các nhóm máu và truyền máu https://youtu.be/rQ56G2zOf00 https://youtu.be/K6QIyh5gy2Y

  5. I. MỞ ĐẦU Máu con người được chia làm nhiều nhóm - dựa theo một số chất cacbohydrat và protein đặc thù trên hồng cầu. Hiện có khoảng 40 nhóm khác nhau đã được phát hiện, nhưng có hai nhóm quan trọng hơn cả là nhóm máu ABO và yếu tố Rhesus (Rh). Vì những lý do chưa được hiểu rõ hoàn toàn, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của người nhận có thể phá hủy máu được truyền, gây tác hại cho cơ thể.

  6. II. NỘI DUNG: 1. Kháng nguyên nhóm máu (Hệ ABO, Hệ Rhesus) a/ Hệ ABO: Hệ này bao gồm 4 nhóm máu khác nhau: A, B, AB và O. Ký hiệu nhóm máu biểu thị kháng nguyên có mặt trên bề mặt hồng cầu. Cơ thể nhóm máu A thì có kháng nguyên A, nhóm B thì có kháng nguyên B, nhóm AB có kháng nguyên A và B và nhóm O thì không có cả A và B trên hồng cầu. Ngoài ra do cơ thể có trạng thái dung nạp với kháng nguyên của bản thân nên trong huyết thanh không có kháng thể chống lại kháng nguyên có trên bề mặt hồng cầu của nó, nhưng đối với kháng nguyên thuộc nhóm khác thì nó lại có kháng thể để chống lại nghĩa là:

  7. - Cơ thể nhóm A có kháng thể chống B - Cơ thể nhóm B có kháng thể chống A - Cơ thể nhóm AB không có kháng thể chống A,B - Cơ thể nhóm O có kháng thể chống A, B. - Các kháng thể này xuất hiện tự nhiên trong huyết thanh. Một đặc điểm khác của cơ thể là người máu A có mang kháng thể chống B trong huyết thanh, người máu B thì có huyết thanh chống A, người AB thì huyết thanh không có kháng thể chống hai kháng nguyên này còn nhóm O thì có cả hai loại kháng thể.

  8. Các kháng nguyên thuộc hệ ABO do một locus gen kiểm soát với ba allel A, B, và O, trong đó A và B trội hơn O. Tính đặc hiệu kháng nguyên nhóm máu trong hệ ABO được quyết định bởi sự có mặt của một số gốc “ose” trong phần polysaccharid. Các kháng nguyên này đều có chung một lõi sphingolipid- polysaccharid. Nếu lõi này được gắn thêm gốc fucose thì xuất hiện chất H. Chất này có trên bề mặt hồng cầu của hầu hết các cơ thể và là nền để xuất hiện kháng nguyên A và kháng nguyên B. Nếu tại vị trí galactose cuối cùng của chất H có gắn thêm N-acetyl galactosamin thì xuất hiện kháng nguyên A. Còn nếu gắn thêm một galactose nữa thì xuất hiện kháng nguyên B (Hình 4.2).

  9. Hình 4.2. Sơ đồ cấu tạo kháng nguyên ABOCác gen A hoặc B mã hóa cho enzym transferase gắn N-acetylgalactosamin hoặc galactose vào chất H để tạo nên nhóm máu A hoặc B. Nếu không có gen A hoặc B thì máu thuộc nhóm O.

  10. Về mặt di truyền, tham gia vào sự hình thành kháng nguyên nhóm máu có hai hệ gen, đó là hệ Hh đối với chất H và hệ ABO. Hai hệ này hoạt động độc lập với nhau. Đại đa số chúng ta có gen H, nhưng cũng có người không có (cơ thể đồng hợp tử hh). Những người này dù có gen của hệ ABO nhưng trên hồng cầu vẫn không có kháng nguyên A hoặc B nên được ghi nhận là nhóm O nhưng khi truyền máu O thực sự vào người này (tức đưa chất H vào cho người không có H) thì có thể gây tai biến truyền máu. Nhóm đặc biệt này được gọi là nhóm O Bombay.

  11. b/ Hệ kháng nguyên nhóm máu Rh Năm 1930, Landsteinner và Wiener đã phát hiện ra nhóm máu Rh. Họ gọi những người có hồng cầu ngưng kết với huyết thanh thỏ kháng hồng cầu của khỉ Rhessus là người Rh+, số người còn lại là Rh-. Nhưng rồi sau này, người ta đã phát hiện ra rằng, kháng nguyên trong hệ Rh không đơn giản như vậy. Hệ Rh có nhiều kháng nguyên, phần lớn có tính sinh miễn dịch yếu và hay gây phản ứng chéo. Chỉ có kháng nguyên D là có tính sinh miễn dịch mạnh. Khi hồng cầu có kháng nguyên D thì được gọi là Rh+ mà không cần để ý đến các kháng nguyên khác trong hệ này. Kháng thể kháng D không xuất hiện tự nhiễm trong máu như các kháng thể của hệ ABO. Vì kháng nguyên Rh phân bố thưa thớt trên hồng cầu nên thường khó gây ngưng kết hồng cầu khi làm phản ứng xác định nhóm máu Rh, vì thế người ta phải dùng đến thử nghiệm Coombs giám tiếp (Hình 4.3)

  12. Hình 4.3. Phản ứng Coombs gián tiếp (a). Hình ảnh phản ứng âm tính; (b) Hình ảnh phản ứng dương tính; (c) Cơ chế phản ứng trong trường hợp bất đồng nhóm máu Rh.

  13. Kháng nguyên D thuộc hệ nhóm máu Rh có tính sinh miễn dịch mạnh nhất trong tất cả các hệ nhóm máu ngoài hệ nhóm máu ABO. Do đó, đây là hệ nhóm máu quan trọng sau hệ nhóm máu ABO. Hầu hết máu ở người đều có kháng nguyên D trên hồng cầu, thường gọi là Rh D(+). Ngược lại, không có kháng nguyên D trên hồng cầu thì được gọi là Rh D(-). Tỷ lệ người có Rh D(-) tại Việt Nam chỉ khoảng 0,07%, nên đây được xem là một nhóm máu hiếm. Người có nhóm máu Rh D(-) có thể truyền máu cho người có nhóm máu Rh D(+), nhưng chỉ được nhận máu truyền từ người có cùng nhóm máu và có Rh D(-). Hệ nhóm máu Rh có tính sinh miễn dịch mạnh nhất Đây là nhóm máu hiếm, các bệnh viện hoặc ngân hàng máu thường không dự trữ đủ nên khi cần truyền máu thì có thể gặp khó khăn.

  14. 2. Kháng nguyên vi sinh vật Kháng nguyên vi sinh vật là loại kháng nguyên rất phức tạp: kháng nguyên vỏ, kháng nguyên thân, kháng nguyên lông, kháng nguyên ngoại tế bào, v.v… Về kháng nguyên vỏ thì kháng nguyên vỏ của phế cầu thường hay được nghiên cứu nhiều nhất. Kháng nguyên này thuộc loại polysaccaride, có tới 80 typ huyết thanh khác nhau.

  15. Về kháng nguyên thân thì ở các vi khuẩn ruột non, lớp ngoài của vách vi khuẩn có một lipopolisaccharide: phần lipid có tính độc, còn phần polysaccharid thì có tính kháng nguyên và đây chính là kháng nguyên thân (còn gọi là kháng nguyên O). Ở Salmonella có đến hơn 60 kháng nguyên O mà cấu trúc có hai phần: phần nhân cơ bản và phần chuổi ngang. Phần nhân giống nhau ở tất cả các Salmonella. Phần chuổi ngang gồm nhưng tiểu đơn vị oligosaccharide sắp xếp lặp đi lặp lại. Chính các chuổi ngang quyết định tính đặc hiệu của mỗi nhóm Salmonella.

  16. Các kháng nguyên lông của Salmonella có bản chất là protein, còn được gọi là kháng thể H, quyết định tính đặc hiệu của mỗi typ Salmonella. Người ta đã phát hiện Salmonella có hơn 1000 typ huyết thanh khác nhau. Các kháng nguyên ngoại tế bào như độc tố và các enzym cũng có bản chất protein. Một loại kháng nguyên ngoại tế bào của liên cầu là Streptolysin O thường được dùng trong chẩn đoán huyết thanh. Các vi khuẩn trong bạch hầu, uốn ván có ngoại độc tố gây bệnh và các vaccin phòng các bệnh này đây là độc tố đã được giải độc.

  17. Kháng thể virus có thể ở trên bề mặt hạt virus (capsid) hoặc ở bên trong. Tùy theo tính đặc hiệu, có thể phân biệt các kháng nguyên nhóm, các kháng nguyên typ và kháng nguyên typ phụ. Trong các kháng nguyên nhóm, có thể kể làm ví dụ kháng nguyên nucleoprotein (NPA), là kháng nguyên typ, chẳng hạn trong bệnh bại liệt, cho phép phân biệt ba typ virus bại liệt khác nhau. Trong trường hợp virus cúm, ngoài việc phân biệt ba typ A, B, C,  người ta còn phân biệt typ phụ nữa. Các typ phụ của A và B là kết quả của những biến đổi của kháng nguyên bề mặt.

  18. 3. Kháng nguyên polypeptid tổng hợp Kháng nguyên này là các polyme của các gốc axit amin liên kết với nhau bằng các liên kết peptid. Homopolyme: polymer chỉ gồm một loại axit amin. Copolyme: polymer gồm hai hoặc nhiều loại axit amin. Polyme khối: polyme gồm nhiều đoạn peptid nhỏ có thứ tự nhất định liên kết với nhau. Kháng nguyên polypeptid tổng hợp được dùng để nghiên cứuảnh hưởng của kích thước, hình dáng lập thể , thành phần hóa học... đến tính sinh miễn dịch của kháng nguyên.

  19. III. KẾT LUẬN Hệ thống nhóm máu quan trọng nhất là ABO rồi đến hệ nhóm máu Rh. Hiện nay trong hệ thống nhóm máu này đã xác định được 50 loại kháng nguyên. Trong đó 5 kháng nguyên C, c, D, E và e là quan trọng nhất, đặc biệt là kháng nguyên D với tính sinh miễn dịch cao và tính kháng nguyên mạnh. Trạng thái Rh âm tính hay dương tính ở đây chính là trạng thái âm tính hay dương tính với kháng nguyên D. Nếu có kháng nguyên D thì là nhóm Rh+ (dương tính), nếu không có là Rh- (âm tính). Các nhóm máu A, B, O, AB mà Rh- thì được gọi là âm tính A-, B-, O-, AB-. Rhesus là một đặc điểm di truyền của mỗi cá nhân và tồn tại suốt cuộc đời. Trong đó, nhóm máu Rh- rất hiếm gặp, ở Việt Nam, Nhóm máu Rh- chỉ chiếm 0,04%, còn Nhóm Rh+ chiếm đến 99,96%. Đặc điểm của nhóm máu Rh này là chúng chỉ có thể nhận và cho người cùng nhóm máu, đặc biệt phụ nữ có nhóm máu Rh- thì con dễ tử vong do đó phụ nữ có nhóm máu này khi mang thai cần theo dõi thường xuyên. .

More Related