1 / 43

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 11

u1ede tru01b0u1eddng phu1ed5 thu00f4ng, mu00f4n vu0103n cu00f3 vu1ecb tru00ed, vai tru00f2 ru1ea5t quan tru1ecdng trong viu1ec7c <br>hu00ecnh thu00e0nh phu00e1t triu1ec3n nhu00e2n cu00e1ch, nu0103ng lu1ef1c ngu00f4n ngu1eef cho hu1ecdc sinh. Thu00f4ng thu01b0u1eddng <br>mu00f4n Ngu1eef vu0103n gu1ed3m cu00e1c phu00e2n mu00f4n: u0110u1ecdc vu0103n, tiu1ebfng viu1ec7t, tu1eadp lu00e0m vu0103n. Trong u0111u00f3 <br>phu00e2n mu00f4n lu00e0m vu0103n cu00f3 vu1ecb tru00ed hu1ebft su1ee9c quan tru1ecdng, bu1edfi lu1ebd nu00f3 quyu1ebft u0111u1ecbnh cho viu1ec7c <br>nhu1eadn u0111u1ecbnh, u0111u00e1nh giu00e1, diu1ec5n u0111u1ea1t ngu00f4n ngu1eef cu1ee7a hu1ecdc sinh. Trong chu01b0u01a1ng tru00ecnh su00e1ch <br>giu00e1o khoa Ngu1eef vu0103n nhu1eefng nu0103m tru01b0u1edbc u0111u00e2y thu01b0u1eddng xuu1ea5t phu00e1t tu1eeb mu1ed9t quan niu1ec7m <br>khu00e1 cu1ef1c u0111oan: Coi tru1ecdng nghu1ecb luu1eadn vu0103n hu1ecdc.

Download Presentation

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 11

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. Phần mở đầuTrang 1. Lời giới thiệu……………………………………………………...............2 2. Tên sáng kiến……………………………………………………................3 3.Tác giả sáng kiến……………………………………………………........... 3 4. Chủ đầu tư sáng tạo………………………………………...........................3 5. Lĩnh vực áp dụng ………………………………………..............................3 6. Ngày sáng kiến được áp dung………………………………………………3 7. Mô tả bản chấtSKKN……………………………………………………....3 Phần nội dung 1. Nhận dạng đề................................................................................................. 5 2. Tìm hiểu đề.................................................................................................... 9 3. Lập dàn bài....................................................................................................11 4. Hướng dẫn chi tiết làm bài cụ thể.................................................................12 5. Hướng dẫn HS làm bài theo hướng mở.........................................................23 6. Bài văn mẫu cho HS......................................................................................25 Phần kết luận và kiến nghị.............................................................................32 1 Lop4.com.vn

  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Ởtrường phổ thông, môn văn có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách, năng lực ngôn ngữ cho học sinh. Thông thường môn Ngữ văn gồm các phân môn: Đọc văn, tiếng việt, tập làm văn. Trong đó phân môn làm văncó vị trí hết sức quan trọng, bởi lẽ nó quyết định cho việc nhận định, đánh giá, diễn đạt ngôn ngữ của học sinh. Trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn những năm trước đây thường xuất phát từ một quan niệm khá cực đoan: Coi trọng nghị luận văn học. Để khắc phục tình trạng cực đoan trên, chương trình Ngữ văn hiện nay có những điều chỉnh lớn nhằm cân đối giữa nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Đây là nội dung phù hợp nhưng cũng hết sức khó khăn cho việc học tập của học sinh. Trong những năm gần đây kiểu văn nghị luận xã hội đã được chú trọng trong các nhà trường trung học. Bởi văn nghị luận đã trở thành tiêu chí đánh giá đối với học sinh không chỉ trong những bài kiểm tra, thi học sinh giỏi, thi vào lớp 10 và ngay cả thi tốt nghiệp THPT rồi đến kì thi Đại học. Sự chuyển biến này là cơ hội và cũng là thách thức đối với học sinh. Một thời gian khá dài, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Rèn luyện văn nghị luận xã hội giúp học sinh không chỉ hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình, mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội. Thế nhưng thách thức đặt ra đối với học sinh và giáo viên cũng không phải là nhỏ. Học sinh quá quen với tư duy văn học, kiến thức về xã hội còn hạn chế, tài liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều, kĩ năng làm bài chưa thuần thục, dung lượng một bài không được quá dài, chỉ được viết trong một thời gian ngắn về một vấn đề trong cuộc sống chứ không phải cố định ở một văn bản trong sách giáo khoa...Tất cả những điều đó tạo nên áp lực, gây khó khăn cho học sinh. Trong năm qua, bản thân tôiđược phân công giảng dạy môn Ngữ văn 11, tôi luôn có ý thức trong việc giảng dạy, đặc biệt đã chú trọng rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm bài nghị luận nói chung và bài văn nghị luận xã hội nói riêng, vì đây là một vấn đề đang được xem là mới và khó. Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng của việc làm bài nghị luận xã hội ở trường THPT hiện nay, để tạo tiền đề cho việc học và làm văn của các em 2 Lop4.com.vn

  3. ở các bậc học tiếp theo, tôi đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 11”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài kinhnghiệm, qua đó giúp cho học sinh lớp 11 nắm vững hơn phương pháp làm kiểu bài này, với mong muốn nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của các em. 2. Tên sáng kiến: “Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 11”. 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Nguyễn Thị Hà - Địa chỉ: Trung tâm GDNN - GDTX Tam Đảo - Số điện thoại: 0975875514 Email: nth.gvthpt@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Hà - Trung tâm GDNN-GDTX Tam Đảo 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: - Áp dụngdạy học môn Ngữ văncho học sinh cấp THPTlớp11. - Hỗ trợ giáo viên có thêmkinh nghiệm trong giảng dạy: Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 5/11/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Nội dung sáng kiến: PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH 1. Cơ sở lí luận Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay thì giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu giáo dục của tất cả các quốcgia là đào tạo con người phát triển toàn diện. Tổ chức khoa học giáo dục thế giớiUNESCO cũng đã đề xướng mục đích học tập là: “Học để biết, học để làm, học đểchung sống và học để khẳng định mình”. Việc đưa mảng nghị luận xã hội vàochương trình Ngữ văn bậc trung học hoàn toàn phù hợp với xu hướng giáo dục trên.Nghị luận xã hội là phưong pháp nghị luận lấy đề tài từ các 3 Lop4.com.vn

  4. lĩnh vực xã hội, chínhtrị, đạo đức làm nội dung bàn bạc nhằm làm sáng tỏ cái đúng, sai, tốt, xấu của vấnđề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng nhưvận dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề tài và nội dung này thường lànhững vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính thời sựcao. Đối với học sinh THPT, các bài văn nghị luận xã hội thường mang đến cho cácem những suy nghĩ và nhận thức đúng đắn về cuộc sống; có ý nghĩa hướng đạo, đặcbiệt là uốn nắn nhận thức cho các em về những vấn đề có tính hai mặt của đời sốngxã hội đang tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ. 2. Cơ sở thực tiễn: Để làm tốt bài nghị luận xã hội, học sinh phải có những hiểu biết tương đối sâu rộng vềcác lĩnh vực đời sống, chính trị xã hội… Song đa phần học sinh phổ thông ngày nay không có nhiều kiến thức xã hội. Các em không có sự chủ động quan tâm tìm hiểu các vấn đề xã hội do bản chất của các vấn đềchưa hấp dẫn với học sinh. Các em lại dành phần lớn quỹ thời gian của mình cho việc học ởtrường và ôn bài ở nhà. Bị bó hẹp trong môi trường gia đình và nhà trường các em gần như bị tách khỏi những vận động của đời sống chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, bản chất của những vấn đề xã hội cũng phức tạp, khó nắm bắt với lứa tuổi học sinh. Khó khăn thứ hai khi học sinh làm bài nghị luận xã hội mắc phải là khó khăn vềphương pháp. Đa số học sinh phổ thông không thành thạo các phương pháp lập luận, gặp khó khăn trong tư duy lôgic, đặc biệt là lôgic ngôn ngữ. Phương pháp học văn quen thuộc của học sinh là được thầy cô giáo hướng dẫn và làm bài theo mẫu. Văn nghị luận xã hội lại không có mẫu, không thể biết giới hạn kiến thức đểhướng dẫn trước. Trong thực tế, kiến thức xã hội nói chung, kiến thức xã hội để làm bài văn NLXH nói riêng của học sinh THPT hiện nay không cao, khả năng tư duy logic và khả năng lập luận của đa số học sinh còn thấp nên các em thường gặp khó khăn khi làm bài NLXH. Thời lượng dành cho bài NLXH trong chương trình phổ thông hiện nay chỉ có 2 tiết lí thuyết dạy vào lớp 12 vì vậy giáo viên cũng gặp khó khăn khi giảng dạy phân môn này. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng bài NLXH cho học sinh, làm thế nào để bồi dưỡng kiến thức xã hội cho học sinh là một vấn đề cấp thiết. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy Ngữ Văn , chúng ta cần phải làm gì trước thực tế này để giúp các em học sinh có được những kỹ năng làm bài tốt nhất khi đứng trước nhiều vấn đề rất thiết thực của đời sống xã hội, qua đó bày tỏ được thái độ, suy nghĩ, nhận xét ... của bản thân trước vấn đề ấy? Đó là những câu hỏi đã và đang được đặt ra và cần sớm được giải quyết trong thực tế dạy - học hiện nay. Là giáo viên giảng dạy Ngữ Văn, tôi luôn mong muốn giúp các em học sinh tiếp cận được vấn đề, hiểu và giải quyết 4 Lop4.com.vn

  5. được vấn đề đặt ra từ các đề làm văn nghị luận xã hội. Từ đó, bồi dưỡng cho các em sự yêu thích đối với môn học và cũng là để góp phần giúp các em thêm hiểu người, hiểu đời,làm phong phú thêm đời sống tâm hồn, tình cảm; góp phần hình thành kỹ năng sống cho các em từ những vấn đề xã hội được tiếp cận. Đồng thời, những vấn đề được đặt ra từ các đề bài làm văn nghị luận xã hội cũng góp phần thiết thực vào việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho học sinh, trở thành hành trang tri thức, góp phần chuẩn bị cho các em tự tin bước vào đời thông qua những vấn đề nghị luận xã hội rất thiết thực. 3. Thực trạng dạy học văn NLXH ở trường phổ thông -Thực trạng chung:Thực trạng học và làm bài văn nghị luận nghị luận xã hội đang là một vấn đề được quan tâm trong các trường THPT nói chung và trường TT GDNN-GDTX Tam Đảonói riêng. Theo thống kê và theo dõi kết quả thi học, kì, thi học sinh giỏi, thi vào PHPT của mấy năm gần đây thì chất lượng làm bài môn Ngữ văn của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên phần điểm bị trừ trong bài lại rơi vào phần văn nghị luận xã hội. Nguyên nhân chính là do cách diễn đạt của các em chưa được tốt. Các ý còn chung chung, chưa cụ thể và rõ ràng, kiểu nghị luận này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì các em lại chưa có. Nhiều em còn mắc các lỗi về dùng từ, diễn đạt...có em còn xác định sai đề, dẫn đến sai kiến thức cơ bản do suy diễn cảm tính, suy luận chủ quan hoặc tái hiện quá máy móc dập khuôn trong tài liệu, thậm chí có chỗ “râu ông nọ cắm cằm bà kia” nhầm nghị luận về tư tưởng đạo lí sang nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống...Sở dĩ chất lượng phần văn nghị luận xã hội còn chưa đạt yêu cầu như vậy là do nhiều nguyên nhân: - Về giáo viên: Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã nắm chắc được cấu trúc của các đề thi học sinh giỏi và thi vào THPTQG, một phần không thể thiếu là câu hỏi liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội, thế nhưng một số giáo viên vẫn cho rằng câu hỏi chỉ chiếm tỉ lệ điểm trong bài khoảng 20% số điểm nên chưatập trung nhiều để hướng dẫn học sinh, khiến kiến thức cơ bản học sinh nắm chàng màng. Tư tưởng học sinh làm bài lại chỉ chăm chú đến phần nghị luận văn học mà không nghĩ rằng đây là phần dễ đạt điểm tối đa. Hơn nữa lâu nay có khá nhiều học sinh và ngay cả thầy cô cứ nghĩ rằng văn hay là câu chữ phải “bay bổng”, phải “lung linh”, nghĩa là dùng cho nhiều phép tu từ, nhiều từ “sang”, nhiều thuật ngữ “oách” mà quên rằng văn hay là sự chân thực, sự giản dị, tức là nói những điều mình nghĩ và nói bằng ngôn ngữ bình thường, không cao giọng, không uốn éo làm duyên. - Về học sinh. Trong những năm gần đây học sinh không hứng thú muốn học môn Ngữ văn, nhất là ngại làm những bài văn. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn khó, lại mất nhiều thời gian, “công thức” làm văn cho các em lại không hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Kĩ năng tạo lập văn bản của học sinhở trường TT GDNN-GDTX Tam Đảo còn kém nhiềuvà rất hiếm có những bài nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, 5 Lop4.com.vn

  6. đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm, luận cứ... Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ đề yêu cầu nghị luận về tư tưởng đạo lí lại làm sang nghị luận về hiện tượng sự việc đời sống. Mặt khác đối với bài nghị luận xã hội dung lượng quy định (chỉ khoảng 300 đến 400 từ hoặc một trang giấy thi) nhiều học sinh vẫn chưa căn được, cứ thế phóng bút viết thậm chí hết nhiều thời gian mà bài lại không cô đọng, súc tích. Một điều nữa mà ta dễ dàng nhận thấy khi dạy kiểu bài này các em đều quan niệm là bài văn “khô khan” nên bài viết chưa có sức hút, chưa lay động được tâm hồn người đọc. Ởbất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp hẫn là ở chất lượng. Mà chất lượng một bài văn phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: Cách lập luận, dùng từ, câu... Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như sau:Năm học 2018-2019. Lớp Sĩ số khá (5->7điểm) SL % SL 11A1 34 17 50,0 15 Kết quả trên đây cho thấy nguyên nhân mấu chốt là học sinh phần nhiều chưa biết làm bài văn nghị luận tốt. Vậy nên việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội là rất cần thiết. Số HS không biết cách làm bài (1->4điểm) Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình- Số HS làm bài tốt (8-9 điểm) SL % 2 5,9 % 44,1 PHẦN II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH LỚP 11 I. NHẬN DẠNG ĐỀ: Nghị luận xã hội là những bài văn mà người viết dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứđể bàn luận về một vấn đề chính trị, xã hội, đời sống. Đề tài của dạng bài này hếtsức rộng mở, bao gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, lối sống, những hiệntượng tích cực, tiêu cực trong đời sống, vấn đề thiên nhiên, môi trường, vấn đề hộinhập, vấn đề giáo dục nhân cách....Nghĩa là ngoài những tác phẩm văn học ( lấy tácphẩm văn học trong nhà trường làm đối tượng) thì tất cả các vấn đề khác được đưara bàn luận đều được xếp vào dạng nghị luận xã hội. Có thể qui về hai dạng đề cơbản: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Dạng nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học xét cho cùng thì cũngphải qui về một trong hai dạng đề trên. Trên thực tế các đề nghị luận xã 6 Lop4.com.vn

  7. hội rấtphong phú và đa dạng, sự phân chia dạng đề chỉ là tương đối. Nhiều khi giới hạngiữa hai dạng đề rất nhỏ nên học sinh khó xác định rạch ròi. Việc nhận dạng đềtrước khi tìm hiểu đề rất quan trọng, giúp học sinh định hướng đúng cho bài làm,tránh sai lạc trong trong quá trình làm bài. 1. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởngđạo đức, lối sống, quan niệm của con người. Vấn đề tư tưởng đạo lí thường đượcnêu lên trong các ý kiến, nhận định của các bậc vĩ nhân, hay nhà thơ, nhà văn, hoặcđược nêu ra ở tục ngữ, ca dao….Các đề thường gặp là: Ví dụ: - Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) vềý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ cònđánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa” (Theo sách Dám thành công –Nhiều tác giả, NXB trẻ, 2008, tr90): Đề thi tuyển sinh đại học khối D năm 2009. - “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướngkiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” (Lép Tônxtôi) . Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lí tưởng nói chung và trình bày lí tưởng riêngcủa mình . - “Đời người cũng như một bài thơ, giá trị của nó không tùy thuộc vào số câu mà tùy thuộc vào nội dung” (Seneca). Suy nghĩ của em về ý kiến trên. - “Có ba điều trong cuộc đời mỗi người nếu đi qua sẽ không lấy lại được: Thờigian, lời nói và cơ hội” Lời nhắn nhủ này nhắc anh (chị) điều gì? - Suy nghĩ của anh (chị) về lời dạy của Chúa Jesus: “Thiên đường ở chính trong ta. Địa ngục cũng do ta mà có” - Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của Tuân Tử: “Người khen ta mà khen phải làbạn của ta, người chê ta mà chê phải là thầy của ta, những kẻ tâng bốc, xu nịnh làthù của ta”. Học sinh có thể nhận ra dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí khi nhận thấy đềbài yêu cầu bàn luận về một nhận định, một câu tục ngữ, hay một câu danh ngôn. 7 Lop4.com.vn

  8. Nhận định, tư tưởng thường được trích dẫn nguyên văn và được đặt trong dấu ngoặc kép. 2. Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống: Xung quanh chúng ta hằng ngày có biết bao hiện tượng xảy ra. Có hiện tượng tốt,có hiện tượng xấu. Tất cả những điều xảy ra trong cuộc sống ấy đều là hiện tượngđời sống. Nghị luận về một hiện tượng đời sống là cách sử dụng tổng hợp các thaotác lập luận để bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với đời sống xã hội,đáng khen, đáng chê, hay đáng suy nghĩ; có tính bức xúc, cập nhật nóng hổi diễn ratrong đời sống hàng ngày, được xã hội quan tâm như: an toàn giao thông, gian lậntrong thi cử, bạo lực học đường, bệnh vô cảm, bệnh thành tích, bệnh đạo đức giả,hiện tượng mê muội thần tượng....từ đó làm cho người đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểusâu, để đồng tình hoặc bác bỏ trước những hiện tượng đó. Các đề thường gặp là: - Hãy viết một bài văn bàn về vấn đề: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động đểgóp phần giảm thiểu tai nạn giao thông hiện nay. Ví dụ: - Em có suy nghĩ gì về vấn đề bạo lực học đường đang diễn ra khá nhiều trong trường học hiện nay? - Hãy viết một bài văn với tiêu đề: “ Nước - nguồn tài nguyên quý vô giá”. - Hãy viết một bài văn bàn về vấn đề: ô nhiễm môi trường . - Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóanhưng mê muội thần tượng là một thảm họa” - Anh (chị) có suy nghĩ gì về căn bệnh vô cảm trong xã hội ta hiện nay? - “Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng”. Suynghĩ của em về ý kiến trên. - Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) bày tỏ suy nghĩ của mình vềhành động dũng cảm cứu người của học sinh Nguyễn Văn Nam từ thông tin sau: “Chiều ngày 30 - 4 –2013, bên bờ sông Lam , đoạn chảy qua xã Trung Sơn,huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp 12T7, trường THPTĐô Lương I) nghe tiếng kêu cứu có người đuối nước dưới sông, em liền chạy đến.Thấy một nhóm học sinh đang chới với dưới nước, Nam đã nhảy xuống, lần lượt cứuđược ba học sinh lớp 9 và một học sinh lớp 6. Khi 8 Lop4.com.vn

  9. đẩy được em thứ năm vào bờ thìNam đã kiệt sức và bị dòng nước cuốn trôi. (Theo Khánh Hoan, Thanhnienonline, ngày 6 - 5 - 2013) - Học sinh nhận ra dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống nhờ vào đốitượng được đề cập đến trong đề bài và yêu cầu của đề bài. Đối tượng được đề cậpbây giờ không phải là một câu nói nào đó mà là một vấn đề đang xảy ra trong cuộcsống hiện tại. Thông thường trên dạng đề này có các từ ngữ như: hiện tượng, vấn đề,vấn nạn…. nhờ các từ ngữ nói trên, học sinh có thể xác định được dạng đề ngay tức thì. - Tuy nhiên với một số đề thì vấn đề lại không hoàn toàn đơn giản như vậy. Cónhững đề có sự giao thoa giữa nghị luận về một tư tưởng đạo lí với nghị luận về mộthiện tượng đời sống. Ví dụ: Nhà hoạt động xã hội Martin Luther King từng nói: “Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cảvì sự im lặng đáng sợ của người tốt”. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên? Đề bài trên vừa bàn về tư tưởng đạo lí, vừa bàn về hiện tượng đời sống. Với dạngđề bài này, học sinh cần kết hợp yêu cầu bài làm của cả hai dạng đề để giải quyết. Trước hết các em cần xác định phần chung của hai dạng đề cần giải quyết, đó là: - Giới thiệu, tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng cần giải quyết. - Bình luận về tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống. Chỉ ra mặt đúng, mặt tíchcực, hay mặt sai, mặt tiêu cực của vấn đề cần bàn luận. - Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân. Mỗi dạng đề có các yêu cầu riêng của nó. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạolí cần thiết phải giải thích ý nghĩa của tư tưởng đạo lí. Còn dạng đề nghị luận về mộthiện tượng đời sống cần thiết phải phân tích nguyên nhân và chỉ ra hậu quả của hiệntượng cần bàn luận. Đối với các đề bài có sự kết hợp cả hai dạng thì học sinh cầnphải xác định luận điểm nhiều hơn, bao gồm cả phần chung và phần riêng đã nói trên. Như vậy, nhận dạng đề là khâu quan trọng đầu tiên giúp học sinh xác địnhđược hướng đi của bài làm, nhằm tránh việc lạc đề. Có thể thấy dạng đề được thểhiện khá rõ qua các dấu hiệu ngôn ngữ có trong đề bài. Đề nghị luận về một tưtưởng đạo lí thường yêu cầu bàn luận về một nhận 9 Lop4.com.vn

  10. định, một câu tục ngữ, một câudanh ngôn. Nhận định, tư tưởng thường được trích dẫn nguyên văn và được đặttrong dấu ngoặc kép. Đề nghị luận về một hiện tượng đời sống thường đề cập đếnđối tượng cụ thể là các hiện tượng, vấn đề, vấn nạn....học sinh có thể nhận biết dễdàng nếu tập trung chú ý. II. TÌM HIỂU ĐỀ: Sau khi nhận dạng đề, học sinh cần tiến hành khâu tìm hiểu đề. Đây không phảilà công đoạn riêng của văn nghị luận xã hội mà bất cứ bài làm văn nào cũng cầnthiết phải được chú ý. Tìm hiểu đề là tìm hiểu 3 yêu cầu của đề, bao gồm: - Yêu cầu về thể loại. - Yêu cầu về nội dung. - Yêu cầu về dẫn chứng. Về thể loại: gần như cả 2 dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí hay nghị luậnvề một hiện tượng đời sống đều là bình luận. Về dẫn chứng, người viết phải biết huyđộng mọi loại kiến thức trong nhà trường cũng như trong cuộc sống đặc biệt lànhững hiểu biết thực tế để làm cho bài viết vừa sâu sắc vừa sống động, đầy sứcthuyết phục. Yêu cầu quan trọng nhất là về nội dung đòi hỏi học sinh phải xác địnhđúng trọng tâm của đề thì bài viết mới đúng hướng. Ví dụ 1: Có ý kiến cho rằng: “Nếu cuộc đời là một bộ phim , tôi muốn là vai phụxuất sắc nhất”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. Luận đề của đề bài này là: Bàn về vai trò của một người bình thường trong xã hộinhưng là người bình thường xuất sắc. Ví dụ 2: Hãy viết bài văn với tiêu đề: “Góc sân và khoảng trời”. Luận đề của đề bài này là: Bàn về mối quan hệ giữa những cái nhỏ bé, gần gũi vànhững cái lớn lao, to tát; giữa thực tại và ước mơ, khát vọng. Ví dụ 3: Có ý kiến cho rằng: “ Một người chưa biết đến những lời nói dối đẹp thìcũng chưa biết đến thế giới chân thực” .Suy nghĩ của em về ý kiến trên. Luận đề của đề bài này là: Bàn về ý nghĩa của những lời nói dối đẹp. Ví dụ 4: Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của Âu Dương Tử: “Trăm sông học bểđến được bể. Gò đống học núi không đến được núi là bởi một đằng đi, một đằngđứng”. 10 Lop4.com.vn

  11. Luận đề của đề bài này là : Tầm quan trọng của cách học và cũng là cách sống củacon người trong cuộc đời. Ví dụ 5: Có ý kiến cho rằng: “ Một người khi đã đánh mất niềm tin vào bản thânthì sẽ đánh mất thêm nhiều thứ quí giá khác”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên. Luận đề của đề bài này là: Bàn về vai trò, tầm quan trọng của lòng tự tin. Ví dụ 6: Suy nghĩ của anh (chị) về lời dạy của Chúa Jesus: “Thiên đường ở chính trong ta. Địa ngục cũng do ta mà có”. Luận đề của đề bài này là: Cuộc sống của chúng ta trở nề đẹp đẽ hay chán ngắt làdo chính chúng ta quyết định. Từ một số ví dụ trên có thể thấy việc tìm hiểu đề có ý nghĩa như thế nào. Nó xác định đúng hướng, đúng trọng tâm yêu cầu của đề. Những học sinh vội vàng, hấp tấp,bỏ qua công đoạn tìm hiểu đề, gặp những đề như thế này chắc chắn sẽ làm lạc đề. Phương pháp chung cho việc tìm hiểu đề là: Đọc thật kĩ đề ra, tiếp theo tìm từ hoặccụm từ then chốt có chứa ẩn ý được gọi là từ khóa hay cụm từ khóa . Sau đó giải mãcác từ khóa để tìm ra yêu cầu trọng tâm của đề là gì. Ở ví dụ 1 cụm từ then chốt là“vai phụ xuất sắc nhất”; nếu xác định từ then chốt là cuộc đời hay bộ phim thì sẽ lạcđề ngay. Ở ví dụ 2 từ khóa là “góc sân” và “khoảng trời”; ví dụ 3 cụm từ khóa là“lời nói dối đẹp” và “thế giới chân thực”; ví dụ 4 từ khóa là “đi” và “đứng”; ví dụ 5cụm từ khóa là “niềm tin vào bản thân”; ví dụ 6 từ khóa là “thiên đường” và “địangục”..... III- LẬP DÀN BÀI Từ yêu cầu chung và một số ví dụ nêu trên, tôi đề nghị mẫu dàn bài cho bài văn nghị luận xã hội như sau: 1. Đối với đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí: - Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu khái quát nhận định, đánh giá có nêu ra ở đề bài. Sau đó định hướng vấn đề nghị luận. Lưu ý: Học sinh phải trích dẫn nhận định và nêu luận đề của đề bài trong phần mở bài này. - Thân bài: + Giải thích Làm rõ nội dung vấn đề tư tưởng đạo lí được dẫn trong đề. + Các biểu hiện của vấn đề trong thực tế đời sống. 11 Lop4.com.vn

  12. + Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí trong bối cảnh của cuộc sống hiện tại. + Ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đối với đời sống xã hội: Mặt tích cực, tiêu cực, đúng hay chưa đúng của tư tưởng đạo lí, khẳng định mặt đúng, tích cực, bác bỏ những biểu hiện sai lệch. + Bàn luận mở rộng, nâng cao vấn đề: Đưa ra phản đề làm đối sánh nhằm khẳng định luận đề, mở rộng nâng cao vấn đề lên mức độ khái quát thành quan niệm sống, triết lí sống. - Kết bài: Kết luận, tổng kết, nêu bài học sâu sắc cho bản thân về nhận thức, về hành động. Lưu ý: Bài làm ở dạng này cần lựa chọn góc độ riêng để giải thích, đánh giá và đưa ra ý kiến riêng của mình. Có thể chọn dẫn chứng từ 3 nguồn: thực tế, sách vở và giả thiết. Tuy nhiên không nên chọn nhiều dẫn chứng văn học, vì sẽ dễ sa vào nghị luận văn học. 2. Đối với đề bài nghị luận về mộtsự việc,hiện tượng đời sống: - Mở bài: Giới thiệu sự việc hiện tượng đời sống có vấn đề, cần bàn luận. - Thân bài: + Nêu thực trạng của hiện tượng, phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại. + Tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng. + Bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó. + Đề xuất các giải pháp cụ thể đối với hiện tượng. - Kết bài: Kết luận, khẳng định những vấn đề đã nêu trong thân bài. Lưu ý: Bài làm ở dạng này cần lựa chọn góc độ riêng để phân tích, nhận định, đưa ra ý kiến và sự cảm nhận riêng của người viết. IV- HƯỚNG DẪN CHI TIẾT LÀM BÀI CỤ THỂ 1) Hướng dẫn cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống: Cuộc sống đang từng giờ, từng phút trôi qua cùng biết bao thay đổi và biết bao sự kiện. Có thể nói chính những sự việc, hiện tượng đời sống là mảng đề tài hết sức hấp dẫn, phong phú người ra đề lựa chọn các mảng đề tài khác nhau để ra đề như: Môi trường, dân số, trẻ em, tệ nạn xã hội.... Để làm tốt dạng đề nghị luận xã hội về sự việc hiện tượng đời sống đang được dư luận xã hội quan tâm, giáo viên cần hướng dẫn học sinh lưu ý. *Làm bài nghị luận về sự việc đời sống. 12 Lop4.com.vn

  13. - Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cụcba phần, luậnđiểm rõ ràng, luận cứ xác thực, lời văn có sức thuyết phục. - Yêu cầu về nôi dung. + Nêu thực trạng của vấn đề. + Biểu hiện –phân tích tác hại. + Nguyên nhân. + Biện pháp khắc phục (hướng giải quyết) + Ý thức bản thân đối với vấn đề nghị luận. Ví dụ : Với nhan đề: Môi trường sống của chúng ta. Dựa vào những hiểu biết của em về môi trường, viết một bài văn ngắn trình bày quan niệm của em và cách làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Nêu vấn đề và triển khai thành bài văn nghị luận gồm các ý cơ bản sau: a. Mở bài: (Nêu vấn đề nghị luận) Môi trường sống của chúng ta thực tế đang bị ô nhiễm và con người chưa có ý thức bảo vệ. b. Thân bài: - Biểu hiện. + Xã hội. + Nhà trường. - Phân tích tác hại: + Ô nhiễm môi trường làm hại đến sự sống. + Ô nhiễm môi trường làm cảnh quan bị ảnh hưởng. - Đánh giá: - Những việc làm đó là thiếu ý thứcbảo vệ môi trường, phá hủy môi trường sống tốt đẹp. - Phê phán và cần có cách xử phạt nghiêm khắc. - Hướng giải quyết. - Tuyên truyền để mỗi người tự rèn cho mình ý thức bảo vệ môi trường. - Coi đó là vấn đề cấp bách của toàn xã hội. 13 Lop4.com.vn

  14. c. Kết bài: Khẳngđịnh lại vai trò của môi trường. *Nghị luận về một hiện tượng đời sống. - Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần, diễn đạt có cảm xúc. - Yêu cầu về nội dung cần đảm bảo các ý sau: + Giải thích hiện tượng. + Trình bày suy nghĩ của người viết về hiện tượng ấy. + Liên hệ thực tế đời sống. + Nêu tác dụng ảnh hưởng và bài học rút ra. Ví dụ : Đề bài:“Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp”. Viết một một bài văn nghị luận (Khoảng 300 từ) nêu suy nghĩ của em được gợi ra từ hiện tượng trên. Gợi ý. Với dạng bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập theo ý. * Về hình thức: Trình bày thành văn bản nghị luận ngắn, có bố cục 3 phần rõ ràng (Mở bài, thân bài, kết bài), yêu cầu không quá 300 từ. * Về nội dung: - Giải thích hiện tượng: là hiện tượng có thể bắt gặp trong thiên nhiên, gợi tả sức chịu đựng, sức sống kì diệu của những loài cây“vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp” ngay trong “một vùng sỏi đá khô cằn” (có thể đi từ việc giải thích từ ngữ: Vùng sỏi đá khô cằn, chỉ sự khắc nghiệt của môi trường sống; loài cây vẫn mọc lên và nở những chùm thật đẹp; sự thích nghi, sức chịu đựng, sức sống, vẻ đẹp). - Trình bày suy nghĩ: Hiện tượng thiên nhiên nói trên gợi suy nghĩ về vẻ đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào vẫn thể hiện nghị lực phi thường, sức chịu đựng và sức sống kì diệu nhất. Đối với họ nhiều khi sự gian khổ, khắc nghiệt của hoàn cảnh lại chính là môi trường để tôi luyện, giúp họ vững vàng hơn trong cuộc sống. “Những chùm hoa thật đẹp” “Những chùm hoa trên đá” (Thơ: Chế Lan Viên). Thành công đạt dược thật có giá trị vì nó là kết quả của những cố gắng phi thường, sự vươn lên không mệt mỏi. Vẻ đẹp của những cống hiến, những 14 Lop4.com.vn

  15. thành công mà họ dâng hiến cho cuộc đời lại càng có ý nghĩa hơn, càng “rực rỡ” hơn... - Liên hệ thực tế : Không có ai ở Việt Nam không biết đến thầyNguyễn Ngọc Kí đã bị liệt cả hai tay, nhưng anh đã kiên trì luyện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ... - Nêu tác dụng, ảnh hưởng, bài học rút ra từ hiện tượng : Những con người với vẻ đẹp của ý chí, nghị lực luôn là niềm tự hào, ngưỡng mộ của chúng ta, động viên và thậm chí cảnh tỉnh những ai chưa biết chấp nhận khó khăn, thiếu ý chí vươn lên trong cuộc sống. 2. Hướng dẫn làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý: * Lưu ý: Đề bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí khá đa dạng. - Thể hiện ở nội dung nghị luận: Những vấn đề tư tưởng, đạolí hết sức phong phú, đa dạng.Vì vậy cần tránh học tủ, đoán “mò” nội dung nghị luận. Điều quan trọng là phải nắm được kĩ năng làm bài. - Thể hiện trong dạng thức đề thi: Có đềthể hiện rõ yêu cầu nghị luận, có đề chỉ đưa rayêu cầu nghị luận mà không đưa ra một yêu cầu cụ thể nào. Có đề nêu trực tiếp vấn đề nghị luận, có đề gián tiếp đưa ra vấn đề nghị luận qua một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện... - Chú ý các bước cơ bản của bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Đây cũng là trình tự thể hiện hệ thống lập luận trong bài viết. Học sinh cần tranh thủ những hướng dẫn quan trọng trong sách giáo khoa để nắm chắc kĩ năng làm bài như ở trên. a.Mở bài: - Dẫn dắt vấn đề. - Nêu vấn đề. b.Thân bài: - Giải thích vấn đề (nghĩa đen, nghĩa bóng; từ ngữ trọng tâm...) - Khẳng định vấn đề (đúng, sai) - Quan niệm: sai trái. - Mở rộng vấn đề. 15 Lop4.com.vn

  16. c.Kết bài: - Giá trị đạo lí đối với đời sống của mỗi con người. - Bài học hành động cho mọi người, bản thân. Đồng thời giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý đối với hai dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lí thường gặp. + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp. + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách gián tiếp. * Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói tới một cách trực tiếp. Những lưu ý về cách làm bài. - Cách làm bài dạng đề này về cơ bản giống với cách nói trên.Ví dụ khi gặp đề bài“Bàn luận về lòng yêu nước”, để đáp ứng được yêu cầucủa đề, học sinh trước hết phải giải thíchkhái niệm “Lòng yêu nước”, nêu và phân tích những biểu hiện của “Lòng yêu nước”; ý nghĩa, vai trò của “Lòng yêu nước”đối với đời sống của mỗi con người, mỗi dân tộc, đồng thời phê phán những biểu hiện đi ngược lại với “Lòng yêu nước”, rút ra bài học về nhận thức và hành động cho bản thân. *Ví dụ minh hoạ: Đề bài: Viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ về đức hy sinh. Đề bài yêu cầu học sinh viết một văn bản nghị luận (không quá một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của bản thân về đức hy sinh. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (Về một vấn đề tư tưởng, đạo lý) đã khá quen thuộc với học sinh. Dù vậy, giáo viên cần hướng dẫn các em đáp ứng được các yêu cầu sau : * Trình bày bài viết đúng với yêu cầu của đề; không quá một trang giấy thi. * Có thể diễn đạt theo nhiều cách, song cần đảm bảo bố cục sau: a.Mở bài: Giới thiệu được đức hy sinh và nêu khái quát đặc điểm vai trò của đức hy sinh. b.Thân bài. - Giải thích sơ lược, nêu biểu hiện của đức hy sinh : 16 Lop4.com.vn

  17. Là những suy nghĩ, hành động vì người khác, vì cộng đồng. Người có đức hy sinh không chỉ có tấm lòng nhân ái mà còn là người biết đặt quyền lợi của người khác, của cộng đồng lên quyền lợi của bản thân mình... - Khẳng định : Đức hy sinh là tình cảm cao đẹp, là phẩm chất đáng quý của con người. Người có đức hy sinh luôn được mọi người yêu mến, trân trọng. - Mở rộng - liên hệ thực tế để thấy: Có nhiều tấm gương giàu đức hy sinh, quên mình vì người khác, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. (Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những người có đức hy sinh - Bác Hồ chính là biểu tượng cao đẹp nhất của con người hy sinh quên mình vì nhân dân, vì dân tộc). Tuy nhiên trong cuộc sống cũng còn một số người có lối sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi của cá nhân mình... c.Kết bài: - Đức hy sinh từ lâu đã trở thành tình cảm có tính truyền thống đạo lý của con người, dân tộc Việt Nam... Mỗi người cần ý thức được điều này để góp phần làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn. * Dạng đề trong đó tư tưởng, đạo lí được nói tới một cách gián tiếp... Những lưu ý về cách làm bài : - Ở dạng này vấn đề tư tưởng, đạo lí được ẩn trong một câu danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện, một văn bản ngắn. Xuất xứ của một câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản ngắn này cũng rất đa dạng: Trong sách giáo khoa, trên báo chí, trên internét, đặc biệt trong cuốn “Quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta, bài học cuộc đời, hạnh phúc ở quanh ta...”. Chính vì thế giáo viên cần hướng cho học sinh biết đọc tham khảo, kể cho các em nghe những câu chuyện có liên quan, có nội dung thiết thực với các em hàng ngày. - Khi làm bài cần chú ý cách nói bóng bẩy, hình tượng thường xuất hiện trong những câu danh ngôn, tục ngữ, thành ngữ..., ý nghĩa ẩn dụ, triết lí sâu sắc của những câu chuyện, văn bản ngắn.Vì thế để rút ra được vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn bạc, cần chú ý : + Giải thích từ ngữ (nghĩa đen, nghĩa bóng) từ đó rút ra nội dung câu nói (Nếu đề bài có dẫn chứng câu danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ...) 17 Lop4.com.vn

  18. + Giải thích ý nghĩa câu chuyện, văn bản (Nêu đề bài có dẫn chứng câu chuyện, văn bản ngắn). - Thông thường khi làm bài, học sinh chỉ chú ý đến tính chất đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận mà ít chú ý thao tác bổ sung, bác bỏ...Những khía cạnh chưa hoàn chỉnh của vấn đề hoặc trái ngược với vấn đề cần quan tâm. Chẳng hạn khi suy nghĩ về tình cảm người mẹ qua câu thơ : “Dẫu con đi hết cuộc đời Cũng không đi hết những lời mẹ ru” (Nguyễn Duy) Ngoài khẳng địng về tình mẫu tử thiêng liêng, ta còn bắt gặp đâu đó những người mẹ còn bỏ rơi con hoặc đánh đập con. Hay khi trình bày suy nghĩ của bản thân về câu nói: “Đừng sống theo điều ta ước muốn, hãy sống theo điều ta có thể”. Học sinh ngoài khẳng định tính chất đúng đắn của lời khuyên (sống thực tế, biết bằng lòng với hiện tại, với những gì mình có...), cần phải hiểu được tầm quan trọng của những khát vọng, ước mơ đối vớimỗi con người trong cuộc sống. - Một điều nữa cần lưu ý là không được sa vào phân tích câu danh ngôn, ngạn ngữ, câu chuyện, văn bản...như một bài nghị luận văn học. Ví dụ: Ví dụ 1: Nghị luận một vấn đề trực tiếp. “Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru” (Nguyễn Duy). Từ ý thơ trên, hãy viết một bài nghị luận xã hội (khoảng một trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về tấm lòng người mẹ. * Về hình thức: Đảm bảo bài văn bố cục 3 phần, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc. * Về nội dung : - Nêu ý nghĩa câu thơ của Nguyễn Duy “Lời mẹ ru” biểu tượng cho tình yêu thương vô bờ mà mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “không đi hết”. Khẳng định tình mẹ là vô cùng thiêng liêng cao cả và bất tử, là bao la vô 18 Lop4.com.vn

  19. tận không sao có thể đền đáp được...Từ đó khẳng định: Tấm lòng của mẹ thật bao la, lớn lao. - Biểu hiện, bàn về tấm lòng của mẹ: + Ban cho con hình hài, muốn con khôn lớn, khoẻ mạnh về vóc dáng, bằng sự chăm sóc ân cần, chu đáo. + Là người dạy con từ những kĩ năng sống đến đạo lí làm người. + Là vị quan toà đầy lương tâm, trách nhiệm, chỉ bảo phân tích xác đáng những sai trái, lỗi lầm. + Là bến đỗ bình yên đón đợi con sau những dông bão cuộc đời. + Là bệ phóng xây dựng niềm tin, khát vọng...để con bay cao, bay xa (lấy dẫn chứng). - Ý nghĩa :Tình yêu và đức hy sinh của mẹ là sức mạnh để giúp con vượt lên khó khăn trong cuộc sống, giúp con sống tốt hơn. - Tuy nhiên trong thực tế, có những người mẹ thể hiện tình thương con không đúng cách (nuông chiều, giấu đi cái xấu, lỗi lầm...), hay có những người mẹ vô trách nhiệm (bỏ rơi, đánh đập con...), những người mẹấyđáng bị phê phán. - Bài học về nhận thức và hành động : Liên hệ bản thân, cảm nhận sâu sắc tấm lòng người mẹ với con cái, tình cảm của con với cha mẹ. Ví dụ 2 : Đề bài:Viết bài văn ngắn (không quá 300 từ), trình bày ý kiến của em về câu nói sau đây của nhà văn Nga Leptôn – xtôi. “Bạn đừng nên chờ đợi những quà tặng bất ngờ của cuộc sống mà hãy tự mình làm nên cuộc sống”. Gợi ý: Học sinh cần đáp ứng một số yêu cầu sau : * Hình thức: Bố cục rõ ràng, diễn đạt chặt chẽ, lô gíc. * Nội dung : - Giải thích câu nói : + Quà tặng bất ngờ: Có thể hiểu theo cả nghĩa cụ thể - khái quát (vật chất và tinh thần, những cơ hội may mắn, bất ngờ...). 19 Lop4.com.vn

  20. + Nội dung ý nghĩa của câu nói khuyên con người cần có thái độ sống chủ động, có ý chí và nghị lực vươn lên. - Bàn luận : + Quà tặng bất ngờ mang lại niềm vui, sự hào hứng...nhưng không phải lúc nào cũng có. + Nhiều người khi nhận được quà tặng bất ngờ; có tâm lí chờ đợi, ỉ lại, thậm chí phung phí những quà tặng ấy. + Phê phán một số người thụ động, thiếu ý chí vươn lên, chỉ chờ đợi những “quà tặng bất ngờ” mà cuộc sống mang lại mà không“tự mình làm nên cuộc sống”. + Không thể phủ nhận những giá trị ý nghĩa của “quà tặng bất ngờ” mà cuộc sống đem lại cho con người, vấn đề là biết tận dụng, trân trọng quà tặng ấy như thế nào? - Bài học nhận thức hành động : Phải chủ động trang bị kiến thức, rèn luyện cách sống bản lĩnh, có ý chí...để có thể đón nhận những “quà tặng kì diệu” của cuộc sống do chính bản thân mình làm nên. 3. Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội. Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây là một công việc khá khó khăn đối với học sinh. Để giúp các em biết cách tìm dẫn chứng một cách tốt nhất, xin chia sẻ một số kinh nghiệm trong việc sưu tầm tư liệu phục vụ cho đề văn nghị luận xã hội. - Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác về một sự việc nào đó. - Sau một thời gian tích luỹ cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất cho một số dẫn chứng tiêu biểu. - Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau. Quan trọng là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ hay BillGates vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của 20 Lop4.com.vn

  21. con người, hoặc vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay về niềm đam mê, bài học về sự thành công, tấm gương về một lòng nhân ái...). - Sau đây là một số dẫn chứng tiêu biểu có thể dùng làm dẫn chứng cho một bài văn nghị luận xã hội. *Dùng nhân vật trong thực tế đời sống để làm dẫn chứng. a. Bác Hồ:Một lãnh tụ vĩ đại, một nhà cách mạng lỗi lạc đồng thời là một nhà văn, nhà thơ. Để có được điều đó Người phải tự học, ý chí vươn lên trong cuộc sống, quan trọng hơn Bác còn là người biết hy sinh mình cho tổ quốc nhân dân. -> Khó khăn không làm cho ý chí lung lay mà ngược lại còn giúp cho con người có nghị lực hơn. b. Niu–tơn :Là nhà toán học, vật lí, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh. Sinh ra thiếu tháng, là một đứa trẻ yếu ớt, Niu-tơn thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ông phải tự tạo ra những trò chơi cho mình và trở thành người rất tài năng. -> Những thiếu thốn của bản thân không thắng nổi sức mạnh của nghị lực. c. Bill Gates: Từ nhỏ đã say mê toán học, từng đậu vào trườngĐại học Harvrard nhưng niềm say mê máy tính ông đã nghỉ học và cùng một người bạn mở công ty Micrôsott. Vượt qua nhiều khó khăn, ông đã trở thành người giàu nhất hành tinh và hiện nay ông đã dành 95% tài sản của mình làm từ thiện. Cuộc đời của ông là bài học cho sự thành côngnhờ tự học và niềm đam mê công việc... d. Chu Văn An: (1292 –1370) là nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối đời Trần. Nổi tiếng cương trực, không cầu danh lợi. Ra làm quan từ thời vua Trần Dụ Tông (Đầu thế kỷ XIV), chính sự suy đồi, nịnh thần lũng đoạn, ông dâng sớ xin chém 7 nịnh thần (thất trảm sở) nhưng không được chấp thuận. Ông treo án từ quan về quê dạy học, viết sách. Ông không vì trò làm quan to mà dựa dẫm, luôn thẳng thắn phê bình những trò thiếu lễ độ. Đây là tấm gương về lối sống trung thực, bất chấp khó khăn vẫn đấu tranh cho lẽ phải. e. Phan Thị Huệ: Là một trong số ít người Việt Nam nhiễm HIV /AIDS dám công khai thân phận - Phạm Thị Huệ, quê ở Hải Phòng đã được tạp chí Time của Mĩ bầu chọn là “Anh hùng châu Á”. Biết mình và chồng bị nhiễm 21 Lop4.com.vn

  22. nhưng cô đã chiến thắng bản thân, đóng góp sức lực cho cuộc đời. Tháng 2/2005 cô trở thành tình nguyện viên của Liên Hợp Quốc. -> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất. g. Anh Trần Văn Thước:bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắtđau khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế. h. Nguyễn Công Hùng:Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên-huyện Nghi Lộc-Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào“Danh mục kỷ lục Việt Nam”về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo. i. Thầy Nguyễn Ngọc Ký:bị liệt cả hai bàn tay đã kiên trì luyện tập biết đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu, viết những dòng chữ thật đẹp trở thành nhà giáo, nhà thơ.-> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất. Đấy là những con người có nghị lực phi thường trong cuộc sống, những con người biết vượt lên số phận. * Dùng những con số biết nói để làm dẫn chứng. a.Tính trên toàn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người. Trong đó 50% là phụ nữ. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha mẹ, hoặc cả cha mẹ qua đời vì HIV/AIDS. HIV/AIDS là một thảm hoạ, toàn nhân loại cần có những hành động thiết thực để ngăn chặn căn bệnh thế kỷ này. b.Những con số biết nói về môi trường : 14 chiếc túi ni lon được làm ra tổn phí nhiên liệu bằng lượng xăng dầu cho một chiếc ô tô chạy 1 km. 22 Lop4.com.vn

  23. c.10 triệu USD là ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho vấn đề rác thải hàng năm, trong khi không tiến hành phân loại và tái chế rác gây lãng phí 9 triệu USD (gần 140 tỉ đồng) Sau khi hướng dẫn học sinh sưu tầm các dẫn chứng, tôi nhận thấy các em làm bài tốt hơn. Bài viết lập luận chặt chẽ, xác thực với những dẫn chứng cụ thể trong cuộc sốngđời thường. Những tấm gương giúp các em hoàn thiện mình hơn, những số liệu làm các em phải suy nghĩ và biếtđưa ra hành động tích cực, để tạo nên sức hút cho bài làm. V- HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI THEO HƯỚNG MỞ Trong những năm gần đây, đề thi môn Ngữ văn đã có nhiều thay đổi về cấu trúc cũng như nội dung. Xu hướng chung của các kì thi là ra đề theo hướng mở. Việc ra đề theo hướng mở đã góp phần phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc học môn Ngữ văn. Nội dung của đề mở không chỉ là những vấn đề xã hội gần gũi, đời thường. Hiện nay cách ra đề nghị luận xã hội của các thầy cô giáo trong các kì kiểm tra hoặc thi cử sáng tạo, phong phú. Điểm qua đề thi ngữ văn vào lớp 10, thi học sinh giỏi của một số tỉnh, thành ta có thể nhận thấy cách ra đề nghị luận xã hội thường dựa vào những cơ sở sau : Cách thứ nhất: Lấy hiện tượng xã hội nổi bật được cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cở sở cho nội dung đề bài. Ví dụ:Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp qua đời lúc 18 giờ ngày 4/10/2013 khi ông vừa tròn 103 tuổi. Ngay sau sự ra đi của Đại tướng, trên mạng giới trẻ đồng loạt thay avatar (ảnh đại diện) chia sẻ sự mất mát lớn lao này. Theo 2 sao-trang thông tin tổng hợp của Vietnamnet. “Ngay trong đêm 4 tháng 10, rạng sáng ngày 5/10, một nhóm các bạn học sinh Hà Nội đã tập trung tại khu vực đường Điện Biên Phủ để thắp nến tiếc thương người anh hùng dân tộc”. Ngày 07/10/2013 báo Gia dinh.net đưa tin : “Trên mạng xã hội cư dân mạng truyền tay nhau hình ảnh một thanh niên người Pháp tên Neang đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh mặc áo dài trắng, đầu chít khăn tang trắng theo đúng phong tục truyền thống của người Việt Nam, tay cầm tấm chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tỏ 23 Lop4.com.vn

  24. lòng thành kính”. Báo chí nước ngoài nhận định:“Đám tang Đạitướng là hiện tượng hiếm có!”. Hãy bàn luận về những sự việc nói trên. Cách thứ 2:Dựa vào các tác phẩm văn học, người ra đề nêu lên vấn đề xã hội và yêu cầu học sinh bàn luận. Ví Dụ 1: Một câu trong đề thi vào lớp 10“Sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hoá - năm học: 2012-2013”như sau : Có một người cha trước khi chết gọi ba con trai đến bên giường, đưa cho họ bó tên và bảo : “Các con thử bẻ bó tên này xem ai có thể bẻ gãy được. Cả ba người đều lấy hết sức bình sinh để bẻ nhưng bó tên đã không gãy chiếc nào. Người cha cầm lấy bó tên tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc một. Trongphút chốc bó tên đã bị gãy...”. (Truyện ngụ ngôn: Người cha và bó đũa) Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dòng) bàn về tính đoàn kết trong gia đình và cộng đồng. Ví dụ 2: Trong bài thơ“Quê hương” nhà thơĐỗ Trung Quân Viết: Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi. Dựa vào ý thơtrên hãy viết một văn bản nghị luận về chủ đề quê hương. Đề bài yêu cầu học sinh viết một bài văn nghị luận (không quá một trang giấy thi) về chủđề quê hương. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (về một vấnđề tư tưởng, đạo lí) với hình thức“khá mở”, tạođiều kiện cho học sinh có thể trình bày ý kiến, cảm nhận của mình xoay quanh chủđề quê hương như (Vai trò của quê hương đối vớiđời sống con người, tình yêu sự gắn bó với quê hương...) Qua đề văn đã dẫn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy: việc có thêm nội dung nghị luận xã hội theo hướng mở sẽ khiến đề phong phú về nội dung và đa dạng về cách kiểm tra. Không chỉ vậy đề nghị luận xã hội còn giúp học sinh tự giác học tập biết quan tâm đến các vấn đề xã hội. Từ đó giúp các em thêm hiểu biết và chủ động trong cuộc sống. Khi làm bài các em còn có cơ hội thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của bản thân trước tình huống mà cuộc sống đặt ra. Nhờ đó kĩ năng sống được rèn luyện. Gợi ý. 24 Lop4.com.vn

  25. - Bước 1: Đọc kĩ đề, phát hiện vấn đề cần giải quyết qua bản tin, câu chuyện, câu nói mà đề đã dẫn. - Bước 2:Tìm những luận cứ để giải thích, chứng minh vấn đề đã được xác định. Việc này thường xoay quanh các câu hỏi người làm bài tự đặt ra dựa vào vấn đề cần giải quyêt. + Hiện tượng (vấn đề) ấy xảy ra ở đâu, như thế nào? Tại sao có hiện tượng (vấn đề) ấy. + Ảnh hưởng, tác động của hiện tượng (vấn đề) ấy đến cuộc sống của những người xung quanh vớixã hội như thế nào? + Những suy nghĩ về hướng giải quyết hiện tượng (vấn đề) đó. Làm thế nào để phát huy (nếu là vấn đề tốt) hoặc hạn chế (nếu là vấn đề chưa tích cực). + Vấn đề đó đã tác động đến bản thân mình nhưthế nào? Bản thân hiểu ra điều gì từ vấn đề được nêu, có ước muốn, quyết định gì... - Bước 3:Dựa vào các ý đã tìm được ở bước 2 để lập dàn ý. + Nếu viết bài văn dù độ dài chỉ một trang giấy thi, nhưng bố cục cũng phải đầy đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. - Bước 4:Hoàn chỉnh văn bản theo dàn ý đã lập bằng những câu văn có cảm xúc và lập luận chặt chẽ. * Lưu ý : - Kĩ năng viết + vốn sống phong phú + cảm xúc chân thành, đúng đắn = sức thuyết phục của bài văn viết. - Giáo viên cần hướng dẫn cho các em học và tham khảo theo chủđề trong cuộc sống: Chủđề tình cảm gia đình (tình mẹ, tình cha, tình anh em...); tình bạn; chủđề môi trường; vấnđề dân số; tệ nạn xã hội... VI- GIÁO VIÊN CẦN CÓ NHỮNG BÀI VĂN MẪU HỌC SINH THAM KHẢO Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên đọc một số bài văn mẫu từđó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức, cách viếtđể vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu 25 Lop4.com.vn

  26. được chọn phải thực sự xúc độngđể lay độngđược tâm hồnđồng thời khơi gợi được chấtvăn trong các em. Ví dụ: Viết một bài văn ngắn bàn về vấn đề: Những con người không chịu thua số phận. Bài mẫu. “Mỗi trang đời đều là một điều kỳ diệu”M.Gorki đã từng nói như thế và điều đó thực sự khiến chúng ta cảm động khi lật giở những trang đời của những con ngườikhông chịu thua số phận như thầyNguyễn Ngọc Ký, anh Trần Văn Thước, Nguyễn Công Hùng... Trước hết ta phải hiểu thế nào là“không chịu thua số phận”. Đó là những người không chấp nhận mình mãi là tàn phế, vô dụng, không học tập, không đóng góp gì cho xã hội. Không mấy người Việt Nam không biết đến thầyNguyễn Ngọc Ký đã liệt cả hai tay đã kiên trì luện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ. Anh Trần Văn Thước : bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắt đâu khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế. Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên- huyện Nghi Lộc-Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo. Điều gì khiến những con người tật nguyền ấy có thể vượt quabệnh tật và khẳng địnhđược bản thân mình? Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn, gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình. Họ đã không mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống tinh thần mạnh mẽ của họ. Song bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác. Đó chính là sự 26 Lop4.com.vn

  27. động viên, khích lệ, giúp đỡ của bạn bè, của người thân, là khát khao không muốn người thân của mình đau khổ, thất vọng và còn nhờ dòng máu kiên cường và truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam. Những con người vượt lên số phận đứng lên bằng nghịlực, khát vọng và ý chí của mình khiến em vô cùng khâm phục. Chính những tấm gương về họ đã xây đắp những ước mơ, hoài bão, trong em, dạy em phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện những khát khao của mình. Những người không chịu thua số phận những con người tàn mà không phế thực sự là những tấm gương cho lứa tuổi học sinh chúng em, khích lệ bản thân mỗi người cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành những người con có ích cho xã hội. Ví dụ 2 : Đề bài: Hãy viết về những điều em cảm nhận được từ câu chuyện dưới đây : Hoa hồng tặng mẹ Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng ba trăm ki-lô-mét. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc. - Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu - nó nức nở - nhưng cháu chỉ có bảy mươi lăm xu trong khi giá hoa hồng đến hai đô-la. Anh mỉm cười và nói với nó: - Đến đây, chú sẽ mua cho cháu. Anh liền mua hoa cho cô bé và đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhìn anh trả lời: - Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu. Rồi nó chỉ đường cho anh lái xe đếnmột nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới đắp. Nó chỉ ngôi mộ và nói: - Đây là nhà của mẹ cháu. Nói xong, nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ. Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa huỷ bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng thật đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch ba trăm ki-lô-mét về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa. 27 Lop4.com.vn

  28. (Theo Quà tặng của cuộc sống, NXB Trẻ, 2006) Bài làm Cuộc sống cứ nhẹ nhàng trôi...cái nhẹ nhàng đó đôi lúc đưa ta vào mộng mị. Vì thế con người ta dễ hờ hững quên đi những giá trị đích thực của tình yêu và những mòn quà. Đọc Hoa hồng tặng mẹ, tôi bỗng giật mình vì những cái vô tình và vì cả những tình yêu nồng đượm mà những người con dành cho mẹ. Mẹ là người đã sinh ra con, đã nuôi lớn con bằng tình yêu ngọt ngào nhất. Mẹ luôn hi sinh và dõi theo con : “Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” (Con cò-Chế Lan Viên) Người con trai trong câu chuyện Hoa hồng tặng mẹít ra cũng đã nhớ về mẹ, muốn dành tặng cho mẹ điều gì đấy khi anh đến tiệm đặt hoa gửi qua bưu điện cho mẹ. Có lẽ khoảng cách địa lí đã khiến anh vẫn phải tiếp tục đi trên con đường của bộn bề, lo toan. Dù vậy anh cũng là một con người biết quan tâm đến trẻ nhỏ. Khi thấy có bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè, anh đã đến và hỏi lí do. Tự nhiên tôi cảm thấy có gì nhói đau... Tôi nhớ lại bàn tay khô héo, nhăn nheo của ông cụ ăn xin bên đường... Tôi nhớ lại ánh mắt ám ảnh của một cô bé bơ vơ, tôi nhớ lại những giọt nước mắt lăn dài đầy khẩn khoản và tuyệt vọng... Tất cả cứ từ từ hiện ra khiến lòng tôi se lại. Vậy đấy! Tôi đã từng tiếc khi bỏ qua nhiều vẻ đẹp kì vĩ nhưng có bao giờ tôi thấy nuối tiếc vì đã bỏ rơi ai, đã hờ hững bước qua những mảnh đời bất hạnh??? Tự nhiên thấy buồn... một hành động nhỏ của anh thanh niên với cô békhông quen biết bên đường đã làm tôi thức tỉnh. Phải quan tâm đến nhau nhiều hơn! “Cuộc sống có bao lâu mà hững hờ”. Thế rồi anh thật tốt bụng khi mua hoa giúp cô bé. Có lẽ anh đã cảm nhận được chút gì đó mong manh nhưng mảnh liệt trong bông hoa cô bé muốn mua tặng mẹ. Một tình yêu sâu đậm, một khát vọng nhỏ muốn đem dâng mẹ món quà đẹp nhất. Rồi anh còn đồng ý chở cô bé đến nhà mẹ để tặng hoa. Con người ta sống và quan tâm đến nhau chân thành quá! Nhưng đến lúc cô bé “chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có phần mộ vừa mới đắp”... Lòng tôi bỗng sao hụt hẫng. Cô bé ấy đâu còn được mẹ che chở “dưới bầu trời bình yên”, đâu còn sà vào lòng mẹ, cảm nhận hơi ấm, đâu còn được mẹ dạy cho cách cảm nhận những vẻ đẹp tinh tế tiềm ẩn, đâu còn được gọi lên tiếng “mẹ” thiêng liêng... Mất mẹ là một sự mất mát lớn. Dù thế cô bé vẫn “ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ”. Có 28 Lop4.com.vn

  29. lẽ mẹ cô bé vẫn sống, ở một nơi xa nào đó, trong tiềm thức hay trong chính góc sâu trong tim cô bé. Tình yêu là vĩnh cửu! Giờ đây, tôi chỉ muốn về nhà, khóc oà trong vòng tay của mẹ và cảm nhận cái may mắn mà bấy lâu nay tôi đã bỏ quên... “Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa huỷ bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng thật đẹp. Suốt đêm đó anh đã lái một mạch ba trăm ki-lô-mét về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa”. Một cái kết mở thật đẹp, đâu chỉ có trong truyện cổ tích. Anh thanh niên đã nhận ra giá trị của đoá hoa ấy là gì. Nó chỉ thật sự có ý nghĩa khi được tận tay trao cho người mình yêu thương. Cái ngọt ngào không chỉ ở những bông hồng tuyệt đẹp mà còn ở tình yêu và nụ cười mà anh và mẹ trao nhau. Tôi thật sự xúc động đọc Hoa hồng tặng mẹ.Bởi tôi lặng lẽ nhận ra chính mình trong câu chuyện. Những giọt nước mắt lặng thầm cứ tuôn rơi. Tôi khóc vì hối tiếc đã bỏ quên những giây phút đẹp... Tôi khóc vì chính cô bé đã mở cánh cửa trái tim cho anh thanh niên và cho tôi... tôi khóc vì tình yêu sao mà giản đơn quá... Tôi khóc chỉ vì để nhớ lại những giọt nước mắt ngày xưa mẹ đã lau khô cho tôi... Sau khi nghe xong những bài văn mẫu tôi nhận thấyở các em phần lớnđều có sự trầm tư suy nghĩ. Nhiều em không thể kìm chế thốt lên lời thán phục“hay, cảmđộng thật”. Điềuđó chứng tỏđã có sự tác động, khích lệ các em rất nhiều trong quá trình học và làm bài. PHẦNIII. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM Để đánh giá kết quả thực nghiệm một cách khách quan và nghiêm túc, người viết sử dụng nhiều biện pháp và tiến hành trên nhiều đối tượng khác nhau. Những đóng góp ý kiến của các giáo viên dự giờ dạy thực nghiệm là một trong những căn cứ quan trọng cho việc đánh giá. Bên cạnh đó, người viết sắp xếp dự giờ đầy đủ các tiết dạy thực nghiệm của đồng nghiệp để quan sát trực tiếp và ghi nhận những cách triển khai sử dụng các phương pháp, biện pháp đề xuất và cách xử lý tình huống nảy sinh. Các lớp được chọn thực nghiệm có đủ các thành phần học sinh khá, trung bình, yếu kém. Người viết đã tiến hành khảo sát và dạy thực nghiệm trên đối tượng HS lớp 11 củaTrung tâm GDNN- GDTX Tam Đảo. + Khảo sát phương pháp dạy, định hướng bài dạycủa GV + Tiến hành dạy thực nghiệm tại các lớp 11. 29 Lop4.com.vn

  30. + Trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp trong quá trình thực nghiệm. - Những kỹ năngcụ thể cần phát triển cho HS: - Hoàn thiện kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, mở bài, thân bài, kết bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. - Kĩ năng nhận diện/ phân biệt các dạng bài NLXH (tư tưởng đạo lí và hiện tượng đời sống). - Biết vận dụng tổng hợp các thao tác nghị luận (chứng minh, giải thích, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận) và các phương thức biểu đạt để viết bài văn nghị luận. - Biết huy động các kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để viết bài NLXH. - Tổ chức dạy học thực nghiệm + Bước 1: Gặp gỡ GV dạy thực nghiệm và đối chứng, nêu nhiệm vụ, cung cấp tài liệu thực nghiệm. + Bước 2: Tiến hành dạy thực nghiệm và đối chứng, dự giờ các tiết dạy thực nghiệm và đối chứng. + Bước 3: Kiểm tra chất lượng HS sau tiết dạy. + Bước 4: Nhận xét, rút kinh nghiệm giờ dạy, tham khảo ý kiến GV dạy thực nghiệm. + Bước 5: Thông kê, phân tích kết quả thực nghiệm. + Bước 6: kết luận về thực nghiệm sư phạm - Dạy thực nghiệm: Trước khi tiến hành dạy thực nghiệm, người viết đã họp và thống nhất chương trình thực nghiệm: giao bản thiết giáo án cho GV dạy thực nghiệm và thống nhất kiến thức, phương pháp dạy và cách thức triển khai bài dạy; cung cấp đề kiểm tra cho các lớp thực nghiệm. Giáo án thực nghiệm đối chứng sẽ lấy chính giáo án giảng dạy trên lớp của các thầy cô tham gia dạy thực nghiệm.Đối với HS tại Trung tâm GDNN-GDTX Tam Đảo, tôi cùng đồng nghiệp trực tiếp dạy thực nghiệm. Kết thúc tiết dạy thực nghiệm, các GV dạy thực nghiệm và đối chứng họp lại để đánh giá, rút kinh nghiệm và có những bổ sung, điều chỉnh cần thiết. 30 Lop4.com.vn

  31. - Kết quả thực nghiệm: Lớp Sĩ số Số HS làm bài tốt (8-9 điểm) Số HS không biết cách làm bài (1->4điểm) Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình- khá (5->7điểm) SL % 20,6 SL 19 % 55,8 SL 8 % 23,6 11A1 34 7 8. Những thông tin cần bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Khi sử dụng mỗi phương pháp, biện pháp, giáo viên cần đặc biệt chú ý tới vai trò chủ thể tích cực sáng tạo của học sinh. Cần có sự kết hợp linh hoạt các phương pháp,kỹ thuật dạy họcđể đạt được kết quả tối ưu trong quá trình rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến. Mục tiêu về kiến thức, kỹ năng của bài học cũng đạt yêu cầu bởi số lượng HS sau giờ học đã nắm rất tốt kiến thức trọng tâm. Điều quan trọng là HS đã phát huy được tính tích cực, chủ động thông qua các hoạt động nhóm, phát triển được năng lực giao tiếp tiếng Việt thông qua hình thứcđối thoại về nội dung bài học. Để rèn luyện học sinh làm bài nghị luận xã hội tốt, tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp cụ thể như trên, với mong muốn giúp các em có một cái nhìn và cách sống toàn diện hơn. Không chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương, yêu con người, yêu cuộc sống; biết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn; có tinh thần tự học để thành công trong cuộc sống và biết cách bảo vệ môi trường sống xung quanh... Phù hợp chung với xu thế xã hội và cũng là mục tiêu mà Đảng đã đề cập ở Nghị Quyết TW8 khoá XI : “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấnđề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ quan điểm tư tưởng chỉđạođến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiệnđảm bảo thực hiện...đổi mớiở tất cả các bậc học, ngành học...” Trong đó phải thực hiệnđổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa họcđể làm cho văn học không xa rời thực tiễn cuộc sống. Theo xu hướngđổi mới chung của giáo dụcđể áp dụng vào từng môn học cụ thể, bản thân tôi nhận thấy kiểu bài nghị luận xã hội trong môn Ngữ 31 Lop4.com.vn

  32. văn là một vấnđềđáng được quan tâm. Vì nghị luận xã hội là một dạng văn còn mới và khó với học sinh THPT. Mặc dù tiết dạy cũng như số điểm trong bài thi không nhiều nhưng cũng là phần quan trọng, giúp học sinh có những hiểu biết về đời sống để sau này thi tốt nghiệp, thi vào Đại học đều có kiểu nghị luận này. Theo tôi đó là cách tốt nhất để đánh giá lực học của học sinh. Buộc các em phải có cái nhìn khác về văn, về cuộc sống. Ngoài kiến thức về văn học, cách làm bài nghị luận văn học còn phải biết quan tâm, đến đời sống xung quanh, biết nhìn nhận sự việc, hiện tượng đời sống đến những đạo lí làm người. Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học 2019-2020, để hướng dẫn cho học sinh làm bài Nghị luận xã hội. Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài văn nghị luận xã hội của học sinh mà lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt. Giờ đây các em đã làm bài đúng hướng, bám sát vào thực tế đời sống cũng biết rút ra những bài học cho bản thân mình. Các em đã hiểu bản chất của kiểu văn này, không thấy khó và viết văn không bị khô khan như trước nữa. Biết lấy dẫn chứng từ thực tế cuộc sống đời thường đểđưa vào bài; nhiều bài đã có sức hút và lay động được người đọc. Đặc biệt các em đã biết phân biệt hai kiểu bài nghị luận xã hội: nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Những đề xuất về một số phương pháp, kỹ thuật dạy học rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hôi, không chỉ được đồng nghiệp trong trường ứng dụng trong các bài dạy và các đồng nghiệp ở trường THPT cũng có sự tham khảo, ứng dụng và đạt được hiệu quả. 11. Danh sách các lớp đã áp dụng thửsáng kiến Phạm vi/Lĩnh vực Số TTTên tổ chức/cá nhân Địa chỉ áp dụngsáng kiến Trung tâm GDNN-GDTX Tam Đảo Vũ Huy Trung 1 Môn Ngữ văn Trung tâm GDNN-GDTX Tam Đảo Bàng Thị Thủy 2 Môn Ngữ văn 32 Lop4.com.vn

  33. PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Phần nghị luận xã hội là phần thi rất quan trọng trong cấu trúc đề thi THPT. Quốc gia. Giáo viên cần hướng dẫn HS nghiên cứu kỹ các kỹ năng làm dạng đề này. Các đề tài, chủ đề nghị luận xã hội rất phong phú, đa dạng. Do vậy, giáo viên không thể hướng dẫn hết và hướng dẫn trúng đề thi được mà chỉ hướng dẫn được các kỹ năng cần thiết để làm bài. Nếu HS nắm vững các bước làm và có vốn hiểu biết xã hội, tích cực thực hành lập dàn ý, viết bài thì kết quả làm bài phần NLXH trong kỳ thi THPT. Quốc gia sẽ tăng lên. Từ đó, tăng cơ hội đỗ tốt nghiệp cho các em.Chính vì vậy, việc rèn kỹ năng làm văn nghị luận xã hội cho HS là việc làm cần thiết, cần được tiến hành bền bỉ, lâu dài và có hệ thống. 2.Kiến nghị. * Đối với giáo viên. Sự tích lũy kiến thức xã hội của học sinh là một quá trình lâu dài và chậm chạp, không thể tích lũy một sớm một chiều mà là cả một quá trình trải nghiệm, tiếp nhận kiến thức. Vì thế nói hướng dẫn tích lũy kiến thức xã hội trong một thời gian ngắn quả là điều không tưởng. Tuy vậy, giáo viên phải biết định hướng vùng kiến thức để các em kịp thời xâu chuỗi, bổ sung thông qua sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng, bạn bè, người thân, thầy cô… Trong thời điểm hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường nảy sinh nhiều vấn đề khiến xã hội đang rất quan tâm như: văn hóa, các quan hệ xã hội, pháp luật, kinh tế… đó là những vùng nhạy cảm, thiết nghĩ giáo viên ngoài việc cung cấp thêm kiến thức để học sinh nắm bắt được thì cũng cần hướng dẫn, khuyến khích các em thường xuyên tìm hiểu thêm thông tin qua việc đọc sách, báo, truy cập Internet ... để vốn kiến thức của các em phong phú hơn, giúp các em viết văn trôi chảy và tự tin trong quá trình làm văn liên quan đến vấn đề nghị luận xã hội. Giáo viên cần tăng cường tiết phụ đạo để có nhiều thời gian bồi dưỡng, cung cấp thêm kiến thức cho các em nhưng điều quan trọng là giáo viên cần hướng dẫn cho các em cần đọc những tài liệu nào và các em khi viết phải biết chắt lọc những thông tin như thế nào. Để học đi đôi với hành, củng cố luyện tập 33 Lop4.com.vn

  34. những kiến thức mà giáo viên cung cấp, giáo viên cần cho các em thực hành nhiều, viết nhiều ( có thể là những đoạn văn ngắn) liên quan đến nhiều vấn đề xã hội bức xúc hiện nay. * Đối với học sinh. Yêu cầu đối với các em là phải đọc sách nhiều hơn, am hiểu xã hội nhiều hơn, tập kĩ năng tranh luận, suy luận một vấn đề, biết nhận thức vấn đề đó đúng hay sai; đúng sai như thế nào để hình thành cho các em một tư tưởng đúng đắn, có lập trường vững vàng. Thường xuyên tham gia các hoạt động ngoại khóa do nhà trường, Đoàn, Đội tổ chức để tích lũy thêm kiến thức xã hội, liên hệ thực tế cho bài viết thêm sinh động. Tam Đảo, ngày 10 tháng 3 năm 2019 Tam Đảo, ngày 6 tháng 3 năm 2019 XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ Tác giả sáng kiến Nguyễn Thị Hà 34 Lop4.com.vn

  35. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, năm 2009 2. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 1, tập 2 –NXB Giáo dục, năm 2009 3. Rèn luyện kỹ năng nghị luận –Bảo Quyến –NXB Giáo dục – 2003. 4. Kỹ năng làm văn nghị luận xã hội, NXB ĐHSP, 2011 5. Các đề thi tốt nghiệp, Đại học, Cao đẳng, THPT Quốc gia 2013, 2014, 2015. 6. Muốn viết được bài văn hay –Nguyễn Đăng Mạnh –NXB Giáo dục – 1994. 7. Văn bồi dưỡng học sinh năng khiếu - Nguyễn Đăng Mạnh , Đỗ Ngọc Thống – NXB Giáo dục, 1997. 8. Dạy văn ở trường phổ thông –Nguyễn Thị Thanh Hương –NXB ĐHQG Hà Nội – 2001. 9. Từ điển tiếng Việt điện tử : - http://vnthuquan.net/ 35 Lop4.com.vn

  36. GIÁO ÁN DẠY THÊM Tiết 20,21: RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI I. MỤC TIÊU BÀI HỌC 1. Kiến thức:Giúp học sinh : - Hoàn thiện các kiến thức về các dạng bài nghị luận xã hội trong nhà trường phổ thông - Nắm được lí thuyết về cách phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn, viết bài. 2. Kỹ năng: - Hoàn thiện kĩ năng tìm ý, lập dàn ý, mở bài, thân bài, kết bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. - Kĩ năng nhận diện/ phân biệt các dạng bài NLXH (tư tưởng đạo lí và hiện tượng đời sống). - Biết vận dụng tổng hợp các thao tác nghị luận (chứng minh, giải thích, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận) và các phương thức biểu đạt để viết bài văn nghị luận. - Biết huy động các kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để viết bài NLXH. 3. Thái độ: - Có ý thức tiếp thu những quan niệm đúng đắn và phê phán những quan niệm Sai lầm ( với nghị luận về một tư tưởng đạo lí) - Có ý thức và thái độ đúng đắn trước một hiện tượng đời sống (với nghị luận vềmột hiện tượng đời sống) - Nâng cao trách nhiệm cá nhân với xã hội, góp phần hình thành kĩ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng sống. 4. Phát triển năng lực : 36 Lop4.com.vn

  37. - Năng lực tìm ý, lập dàn ý, mở bài, thân bài, kết bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. - Năng lực nhận diện/ phân biệt các dạng bài NLXH (tư tưởng đạo lí và hiện tương đời sống) - Năng lực tổng hợp các thao tác nghị luận (chứng minh, giải thích, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận) và các phương thức biểu đạt để viết bài văn nghị luận. - Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học; II. CHUẨN BỊ: 1. Giáo viên: - Sách giáo khoa Ngữ văn 11–tập 2. - Sách giáo viên Ngữ văn 11 –tập 2. - Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11–tập 2. - Giáo án. 2. Học sinh: - Vở ghi, SGK, vở soạn III. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN: - GV ra đề, HS làm bài IV. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY: Ổn định tổ chức : Lớp Sĩ số Ngày giảng 11A1 11A3 1.KHỞI ĐỘNG : Chuẩn kiến thức kĩ năngcần đạt, năng lực cần phát triển Hoạt động của GV- HS Tạo tâm thế cho bài học 37 Lop4.com.vn

  38. - Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm trong vòng 5 phút sẽ tìm các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, danh ngôn có liên quan đến tư tưởng đạo lí. Trong vòng 5 phút nhóm nào kể được nhiều - Nhận thức được nhiệm vụcần giải quyết của bài học. - Tập trung cao và hợp tác tốt để giải quyết nhiệm vụ. hơn nhóm đó sẽ chiến thắng. - HS nhắc lại kiến thức nghị luận về tư tưởng đạo lí. - Có thái độ tích cực, hứng thú. - Tư tưởng đạo lí được thể hiện qua những khía cạnh nào của cuộc sống? em hãy chia các ví dụ mà các em vừa tìm được vào các nhóm khía cạnh đó. + Về lí tưởng mục đích. + Về tâm hồn, tính cách. + Về các quan niệm, quan niệm sống. + Về tình cảm con người ( tình cảm gia đình, thầy trò) 2. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI Họat động 1: Hướngdẫnhọc sinh tìm hiểu lí thuyếtvănnghịluận xã hội 1.Thế nào là văn nghị luận xã hội GV: Thế nào là văn nghị luận xã hội? - Nghị luận xã hộilà những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống. Đề tài của dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, - kĩ năng đọc hiểu văn bản. HS: Trả lời GV: Nhận xét - Kĩ năng nhận diện 38 Lop4.com.vn

  39. GV: Thế nào là văn nghị luận xã hội? - kĩ năng đọc hiểu văn bản. toàn cầu hoá…Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn học, nhà văn làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng được xếp vào dạng nghị luận xã hội, chính trị. - Kĩ năng nhận diện HS: Trả lời GV: Nhận xét 2. Các dạng đề văn nghị luận xã hôi. GV: Các dạng đề văn nghị luận xã hôi? - Trước tiên, chúng ta phải làm quen với các dạng câu hỏi. Đây là một sốví dụ tiêu biểu: GV: Cho HS nhận dạng đề - Kỹ năng nhận diện/ phân biệt các dạng NLXH (tư tưởng đạo lí và hiện tương đời sống) HS; Trả lời bài GV: Nhận xét *“Như một thứ a xít vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có thể ăn mòn cả một xã hội”.Từ ý kiến trên, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc sống hiện nay (đề thi ĐH khối C, năm 2010) - kĩ năng đọc hiểu văn bản, GV: Cho HS nhận dạng đề *“Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn nấp sau bộ mặt hào nhoáng”. Từ ý kiến trên, hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ về sự nguy hại của đạo đức giả đối với cuộc sống. - kĩ năng làm chủ được nhiều loại kiến thức, và HS: Trả lời GV: Nhận xét - kĩ năng phát huy tính chủ trong suy nghĩ của mình. động GV: Cho HS nhận dạng đề *Phải chăng“cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống”(Norman Kusin). Hãy giải HS; Trả lời - kĩ năng đọc hiểu văn bản. GV: Nhận xét - kĩ năng làm chủ được nhiều loại 39 Lop4.com.vn

  40. thích và bình luận ý kiến trên. kiến thức, và GV: Cho HS nhận dạng đề - kĩ năng phát huy tính chủ trong suy nghĩ của mình. *Anh/ Chị hãy bình luận ca từ sau đây trong một bản nhạc của Trịnh Công Sơn: “Sống trên đời cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không?”. *Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh thành tích –một căn bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay. động HS; Trả lời GV: Nhận xét GV: Cho HS nhận dạng đề HS; Trả lời - kĩ năng đọc hiểu văn bản. GV: Nhận xét - kĩ năng làm chủ được nhiều loại kiến thức. GV: Cho HS nhận dạng đề *“Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu). Dựa vào câu thơ trên, hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ riêng của anh/ chị.. - kĩ năng phát huy tính chủ trong suy nghĩ của mình. HS; Trả lời động GV: Nhận xét 3. Bố cụccủa bài nghị luận xã hội: 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài + Phần mở bài cần phải nêu được vấn đề trọng tâm mà đề ra yêu cầu. + Phần thân bài, phải triển khai tiếp các luận điểm đã được nêu ra ở mở bài. - kĩ năng đọc hiểu văn bản. GV: Bố cục của bài nghị luận xã hội? - kĩ năng làm chủ được nhiều loại kiến thức. HS: Trả lời GV: Nhận xét - kĩ năng phát huy tính chủ trong suy nghĩ của mình. động + Phần kết bài:người viết phải đưa ra tổng kết của cá nhân mình về vấn đề đã nêu, đúng hay sai? Bài học nào được rút ra cho cá nhân người viết? 40 Lop4.com.vn

  41. Họat động 2: Hướngdẫnhọc sinh luyệntập 4. Luyện tập: GV: Cho HS hoạt động nhóm Suy nghĩ của anh (chị) về nạn bạo lực học đường hiện nay. a.Tìm hiểu đề: - Xác định nội dung nghị luận của đềvăn là: Nạn bạo lực học đường ngày nay. - Thao tác lập luận sử dụng trong bài văn: Giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. - Phạm vi kiến thức: Kiến thức thực tế cuộc sống xã hội mà người viết đã từng bắt gặp. - Nhóm1: Tìm hiểu đề - Nhóm 2: Lập dàn bài - Kỹ năng nhận diện/ phân biệt các dạng NLXH (tư tưởng đạo lí và hiện tương đời sống) GV: Gọi HS trả lời bài GV:Cho các nhóm nhận xét chéo nhau. GV: Hướng dẫn HS làm dàn bài chi tiết Mở bài:Giới thiệu dẫn dắt vấn đề nghị luận b.Lập dàn bài: * Mở bài:Giới thiệu dẫn dắt vấn đề nghị luận *Thân bài: + Giải thích: bạo lực học đường là những hành vi bạo lực, bao gồm cả bạo lực thân thể và bạo lực tinh thần diễn ra trong môi trường học đường. + Thực trạng của nạn bạo lực học đường trong xã hội hiện nay: nạn bạo lực học đường trong xã hội hiện nay đã trở thành một vấn nạn, nó diễn ra dưới nhiều hình thức và ở nhiều góc độkhác nhau. Đó là hành vi bạo lực giữa học sinh với học sinh, giữa thầy cô giáo với học sinh và giữa học sinh với thầy cô - Kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, mở bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. Thân bài:Phần thân bài nêu được các ý: - Kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, thân bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. + Giải thích: bạo lực học đường ntn? + Thực trạng của nạn bạo lực học đường trong xã hội hiện nay? - Kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, thân bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. 41 Lop4.com.vn

  42. + Những hậu quả do nạn bạo lực học đường gây ra? giáo.(lấy những ví dụ cụ thể). + Những hậu quả do nạn bạo lực học đường gây ra. * Hậu quảđối với cá nhân. * Hậu quảđối với xã hội. + Những nguyên nhân của nạn bạo lực học đường. * Nguyên nhân chủ quan. * Nguyên nhân khách quan. + Những giải pháp cho nạn bạo lực học đường hiện nay. * Giải pháp tình thế. * Giải pháp lâu dài. * Kết bài: Suy ngẫm về vai trò và trách nhiệm của cá nhân mình trong việc góp phần ngăn ngừa và tiến tới chấm dứt nạn bạo lực học đường. - Kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, thân bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. + Những nguyên nhân của nạn bạo lực học đường + Những giải pháp cho nạn bạo lực học đường hiện nay Kết bài:Suy ngẫm về vai trò và trách nhiệm của cá nhân mình trong việc góp phần ngăn ngừa và tiến tới chấm dứt nạn bạo lực học đường. - Kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, kết bài, tạo lập văn bản hoàn chỉnh. 42 Lop4.com.vn

  43. Củng cố, dặn dò - KT bài học - Khái niệm về văn nghị luận xã hội, các dạng đề, bố cục của bài văn nghị luận xã hội - Luyện tập - Hoàn thiện đề văn trên. - Giờ sau: Luyện đề văn nghị luận về hiện tượng đời sống. V. RÚT KINH NGHIỆM GIỜ DẠY ........................................................................................................................... ........................................................................................................................... 43 Lop4.com.vn

More Related