0 likes | 3 Views
Hu1ecdc sinh u00edt u0111u1ecdc su00e1ch, khu00f4ng chu1ecbu hu1ecdc bu00e0i, sou1ea1n bu00e0i u0111u1ec3 tu0103ng thu00eam vu1ed1n su1ed1ng, vu1ed1n vu0103n hu1ecdc, vu1ed1n hiu1ec3u biu1ebft u0111u1ec3 thu1ea5y u0111u01b0u1ee3c cu00e1i hay, cu00e1i u0111u1eb9p cu1ee7a vu0103n chu01b0u01a1ng. -Thu1eddi u0111u1ea1i cu00f4ng nghiu1ec7p u0111iu1ec7n tu1eed phu00e1t triu1ec3n, cu00e1c em bu1ecb cuu1ed1n hu00fat vu00e0o cu00e1c chu01b0-u01a1ng tru00ecnh Intemet, tru00f2 chu01a1i u0111iu1ec7n tu1eed, cu00e1c u0111u0129a hu00e1t, bu0103ng nhu1ea1c...mu00e0 u00edt say mu00ea Vu0103n hu1ecdc -Thu1eddi ku1ef3 kinh tu1ebf thu1ecb tru01b0u1eddng lu00e0m cho con ngu01b0u1eddi thu1ef1c tu1ebf vu00e0 thu1ef1c du1ee5ng hu01a1n vu1edbi cu00e1c bu1ed9 mu00f4n khoa hu1ecdc tu1ef1 nhiu00ean du1ec5 kiu1ebfm ra lu1ee3i nhuu1eadn...
E N D
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI TRƯỜNG THPT SỐ 1 SI MA CAI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIỜ NGỮ VĂN THPT THÔNG QUA VIỆC ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG CỦNG CỐ - DẶN DÒ Môn: Ngữ Văn Tác giả: Vi Thị Huế Giáo viên môn : Ngữ Văn Chức vụ : TTCM \ 1 https://kinhtehoc.net/
Năm học 2013 - 2014 MỤC LỤC NỘI DUNG ĐẶT VẤN ĐỀ STT I 1 2 3 4 5 II 1 2 3 3.1 3.1.1 3.1.2 3.1.3 3.1.3 3.2 3.2.1 3.2.2 4 III TRANG 3 4 4 5 5 6 7 7 7 8 10 12 14 16 16 19 20 21 21 Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứuvà khảo sát thực nghiệm Phương pháp nghiên cứu Thời gian nghiên cứu GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Cơ sở lí luận Cơ sở thực tiễn Giải pháp thực hiệnđề tài Đổi mới hoạt động củng cố Củng cố bằng tác phẩm thơ nổi tiếng có liên quan Củng cố bằng sơ đồ Củng cố bằng trò chơi trắc nghiệm Củng cố bằng bài hát, trích đoạn phim, clip ngắn Đổi mới hoạt động dặn dò Giao yêu cầu soạn bàibằng phiếu học tập Giao bài tập theo nhóm Hiệu quả của SKKN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ cái viết tắt SGK GV HS VHDG VHVN NXBGD NXBĐHQG THPT Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 Chú thích Sách giáo khoa Giáo viên Học sinh Văn học dân gian Văn học Việt Nam Nhà xuất bản Giáo dục Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Trung học phổ thông 2 https://kinhtehoc.net/
I. PHẦN MỞI ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hiện nay, thực tế học sinh không mấy hứng thú với việc học Văn, không thích theo khối C, không ham đọc các tác phẩm văn học ngày càng phổ biến. Người viết có thăm dò ý kiến 70 học sinh lớp 12 thuộc 3 nhóm đối tượng : khá, trung bình, yếu ( khối 12 không có học sinh học lục giỏi môn Ngữ Văn ) tại trường THPT số 1 Si Ma Cai với phiếu hỏi với 3 câu hỏi 1. Em có yêu thích học môn Ngữ Văn không ? a. Rất thích b. Bình thường c. Không thích 2. Em tự nhận xét về mức độ hiểu bài của mình sau các tiết học Văn nói chung ? a. Rất hiểu b Bình thường c Không hiểu mấy 3. Em đánh giá mức độ cần thiết của việc củng cố và dặn dò sau mỗi tiết học với việc hiểu bài của em ? a. Rất cần b Bình thường c Không cần thiết Riêng câu 3, em lí giải tại sao cho lựa chọn của mình : ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... ................................................................................................................................... Kết quả nhận được là S T T Nhóm học sinh Câu 1 Câu 2 Câu 3 Số lượng Tỉ lệ thích học văn Tỉ lệ thấy rất hiểu bài Tỉ lệ thấy củng cố dặn dò quan trọng A b c a b C A b c 1 Giỏi 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 73,3% 46,6% 2 Khá 15 11 3 1 7 8 0 12 3 0 80 % 27,0% 16,2% 3 Trung bình 37 10 17 10 6 15 16 25 4 8 67,5% 16,6% 0 % 4 Yếu 18 3 10 5 0 7 11 10 4 4 55,5 % 5 Tổng 70 24 30 16 23 23 16 1 7 62 38,9% 20,9% 67,6% 3 https://kinhtehoc.net/
Từ con số thống kê khảo sát trên, người viết nhận thấy tỉ lệ học sinh thích học Ngữ Văn chỉ chiếm gần 40 %, tỉ lệ học sinh thấy rất hiểu bài chỉ chiếm khoảng 20 %. Số học sinh thấy phần củng cố dặn dò là rất quan trọng chiếm 67,6% , nhưng nhiều giáo viên lại không chú trọng, thậm chí là bỏ qua phần này khi hết giờ. Học sinh không hiểu bài nên không càng chán học hơn. Qua đó cho thấy thực trạng chung của việc dạy học bộ môn Ngữ Văn qua phương tiện truyền thông phản ánh cũng rất đúng với thực trạng tại trường THPT số 1 Si Ma Cai. Học sinh chưa thấy hứng thú học tập môn Ngữ Văn, chưa thấy thật hiểu bài sau mỗi tiết học. Nguyên nhân có thể chỉ ra như sau Về phía học sinh - Học sinh ít đọc sách, không chịu học bài, soạn bài để tăng thêm vốn sống, vốn văn học, vốn hiểu biết để thấy được cái hay, cái đẹp của văn chương. -Thời đại công nghiệp điện tử phát triển, các em bị cuốn hút vào các chư- ơng trình Intemet, trò chơi điện tử, các đĩa hát, băng nhạc...mà ít say mê Văn học -Thời kỳ kinh tế thị trường làm cho con người thực tế và thực dụng hơn với các bộ môn khoa học tự nhiên dễ kiếm ra lợi nhuận... -Ý chí học tập của học sinh chưa cao, chưa có quyết tâm và ý chí tiến thủ, chưa say mê. Về phía giáo viên: - Giáo viên chưa tìm được phương pháp giảng dạy thật phù hợp với đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh trung bình và yếu - Một sốtiết dạy chưa được đầu tư, thiếu sinh động, hấp dẫn, chưa khai thác tối đa, có hiệu quả từ các phương tiện hỗ trợ dạy học. - Một số phần chưa được giáo viên chú trọng và hay bỏ qua hoặc làm qua loa, chiếu lệ : Lời dẫn vào bài, mục củng cố dặn dò, phần nhận xét rút kinh nghiệm sau tiết dạy… thích môn Văn hơn, làm sao để học sinh hiểu bài hơn sau mỗi tiết học. Để có thể giải quyết được những vấn đề trên, người viết nhận thấy cần đổi mới phương pháp, giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó cần sinh động hóa tiết học, sử dụng sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin hợp lí, để tiết học hấp dẫn hơn. Và đặc biệt, có một phần trong tiến trình tiết dạy mà giáo viên hay bỏ qua hoặc làm rất sơ sài, đó là phần củng cố dặn dò sau mỗi tiết học. Người viết đi dự giờcủa nhiều giáo viên trong cùng tổ bộ môn và nhưng đồng nghiệp trong nhà trường và nhận thấy rằng, nhiều giáo viên vì không phân Đứng trước thực trạng trên, người viết rất trăn trở làm sao để học sinh yêu 4 https://kinhtehoc.net/
phốithời gian hợp lí, nên gần như không giành thời gian cho phần củng cố. Hoặc phầncủng cố chỉ là phần giáo viên nhắc lại một số ý chính trong khoảng 1 phút, sau đó dặn học sinh về nhà học bài và soạn bài cho bài sau một cách chung chung. Đó là lí do người viết đưa đưa ra đề tài “ Nâng cao hiệu quả giờ Ngữ văn thông qua đổi mới phần củng cố - dặn dò ”.Người viết đã tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm đổi mới tiến trình này để bài học đạt hiệu quả cao hơn. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Mục đích của đề tài“ Nâng cao hiệu quả giờ Ngữ văn thông qua đổi mới phần củng cố - dặn dò ”là qua việc nghiên cứu và ứng dụng đề tài này, mỗi giáo viên sẽ đạt hiệu quả cao hơn trong mục đích giảng dạy, học sinh sẽ đạt kết quả cao hơn trong việc khám phá kiến thức qua mỗi tiết học. Cụ thể là: + Củng cố những kiến thức đã học trong bài một cách có hệ thống, khoa học, lô - gíc...làm cho học sinh nắm chắc kiến thức hơn.. + Áp dụng các cách thức củng cố mới sinh động, hấp dẫn, làm cho học sinh hứng thú hơn với học tập, yêu thích bộ môn Ngữ Văn nhiều hơn. + Dặn dò học sinh về soạn bài với những yêu cầu trọng tâm, cụ thể, không chung chung, làm cho học sinh có sự chuẩn bị tốt hơn cho tiết học sau. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đề tàichỉ dừng lại nghiên cứu về phần củng cố dặn dò sau một bài học, và đưa ra các cách thức củng cố dặn dò trong một bài học chương trình Ngữ văn 12 THPT ( chương trình Chuẩn )để tiết học đạt hiệu quả cao hơn. - Nếu đề tài được cấp trên công nhận, người viết sẽ nhân rộng việc nghiên cứu và thực hiện tại các khối lớp khác trong nhà trường. 3.2. Đối tượng khảo sát thực nghiệm - Đối tượng khảo sát thực nghiệm là học sinh lớp 12 A2 và 12 A3 trường THPT số 1 Si Ma Cai 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Người viết áp dụng phương pháp khảo sát thực tế trong giờ dạy và thăm dò ý kiến học sinh. Đồng thời tham khảo ý kiến của đồng nghiệp tổ chuyên môn và nghiên cứu dư luận chung về bộ môn Văn. Kết hợp việc nghiên cứu lí luận giảng dạy Văn học với thực tiễn giảng dạy Ngữ Văn trong nhà trường 5. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU : Đề tài được nghiên cứu tại trường THPT số 1 Si Ma Cai trong thời gian 7 tháng, từ tháng 09- 2013 đến tháng 03 – 2014. 5 https://kinhtehoc.net/
II.PHẦN NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Theo thống nhất của lớp NgữVăn bồi dưỡng hè các năm vừa qua do Sở Giáo dục và dào tạo Lào Cai tổ chức, việc thực hiện một tiết dạy 45 phút trên lớp theo yêu cầu phản tuân thủ các bước sau Bước 1. Ổn định tổ chức ( 1 phút ): Giáo viên kiểm tra sĩ số lớp, ổn định tình hình trong lớp cho nghiêm trang, ngay ngắn Bước 2. Kiểm tra bài cũ ( 3- 5 phút ): Giáo viên gọi học sinh lên bảng trả kiểm tra phát vấn trả lời miệng hoặc làm bài tập lên bảng, kết hợp kiểm tra vở ghi và vở soạn bài của học sinh. Theo đặc thù một số bài học, có thể lồng ghép việc kiểm tra bài cũ và sự chuẩn bị bài mới của học sinh trong quá trình học bài mới. Bước 3. Bài mới ( 30 phút ) - Khởi động ( 1- 2 phút) Giới thiệu mục đíchbài học, dẫn dắt tạo tâm thế hào hứng học tập cho học sinh - Tìm hiểu bài ( 28 phút ) Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiều bài học, đạt chuẩn kiến thức kĩ năng theo yêu cầu Bước 4. Củng cố - dặn dò ( 5 phút ) - Củng cố ( 4 phút ): Khái quát, nhấn mạnh, khắc sâu nội dung trọng tâm bài học - Dặn dò ( 1 phút ) : dặn dò học sinh về nhà chuẩn bị các nội dung cho tiết học tiếp theo Bước 5. Nhận xét rút kinh nghiệm: sau tiết dạy, giáo viên tự nhận xét về những thành công và tồn tại của tiết dạy, hướng phát huy và khắc phục. Việc tuân thủ đúng các bước lên lớp là một việc rất quan trọng, đảm bảo cho tiết học diễn ra khoa học, hiệu quả. Các bước lên lớp trên đều có hiệu quả và mục đích riêng, phục vụ cho mục tiêu chung của tiết dạy và môn học. Phần củng cố dặn dò với thời lượng khoảng 5 phút là một phần rất quan trọng của tiến trình lên lớp. Mục đính của phần củng cố nhằm giúp học sinh hệ thống hoá lại được những kiến thức mình cần nắm sau tiết học, khắc sâu, nhớ lâu hơn những kiến thức trọng tâm. Nó chính là phần tổng ôn tập của tiết học. Còn phần dặn dò nhằm giúp cho học sinh biết được, tiết sau học bài gì, cần chuẩn bị những gì cho bài sau. Từ đó học sinh về nhà chuẩn bị cho tiết học tới một cách cụ thể, đúng hướng. Nếu không thực hiện phần củng cố ôn tập, học sinh sẽ mất đi cơ hội được nắm lại kiến thức vừa học chắc chắn hơn, lại vừa không có sự chuẩn bị cần thiết cho tiết học sau. 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN Rõ ràng vai trò của phần củng cố - dặn dò đối với mỗi tiết học là rất quan trọng. Sau mỗi tiết học, học sinh được củng cố lại kiến thức bài học một cách có 6 https://kinhtehoc.net/
hệ thống, khoa học, sinh động... sẽ giúp các em khái quát lại và nhớ lâu hơn kiến thức vừa học. Đồng thời cũng nắm được mình cần phải chuẩn bị cụ thể những gì cho tiết học tiếp theo. Tuy nhiên, trong thực tê, rất nhiều giáo viên đã bỏ quahoặc làm chưa tốt phần này, vì các lí do sau - Phân phối thời gian không hợp lí nên cháy giờ , không còn thời gian cho củng cố dặn dò - Không đánh giá đúng tầm quan trọng của phần củng cố dặn dò nên thực hiện qua loa, sơ sài, chiếu lệ, thiếu đầu tư, chỉ khoảng 1,2 phút cuối giờ - Có giành thời gian 4, 5 phút cho củng cố dặn dò nhưng làm rập khuân máy móc, chưa sáng tạo , chưa hấp dẫn, chỉ là thầy thao thao bất tuyệt nhắc lại kiến thức chính cần nhớ hoặc hỏi học sinh rất nhiều câu hỏi về bài học vừa qua. - Đưa ra yêu cầu soạn bài không phù hợp với đối tượng học sinh.Nghĩ rằng yêu cầu học sinh về soạn theo câu hỏi sách giáo khoa là xong, trong khi học sinh vùng cao ( THPT số 1 Si Ma Cai ) lại rất yếu về kĩ năng xác định câu hỏi, chưa chăm chỉ nghiên cứu tài liệu, hay làm đối phó cho xong. Vả lại nhiều câu hỏi trong sách giáo khoacòn chung chung, hoặc đưa ra yêu cầu vượt sức với học sinh. - Chán nản cho rằng có củng cố dặn dò cũng thế, học sinh vẫn không nắm được bài, không chịu soạn bài nên mặc kệ. Người viết có đi dự rất nhiều giờ của các đồng môn trong Tổtại trường THPT số Si Ma Cai, nhận thấy rằng bên cạnh những giáo viên chú trọng thực hiện đầy đủ nghiêm túc và hiệu quả phần củng cố dặn dò, cũng có những giáo viên thực hiện rất qua loa, sơ sài, cá biệt có cả những tiết dạy không thực hiện phần này. Nhiều giáo viên chỉ nhắc chung chung: bài học của chúng ta đến đây là hết, các emvề nhà soạn bài cho bài sau nhé . Từ thực tế nhưvậy, người viết đã nghiên củavà đưa ra một số cách đổi mới phần củng cố dặn dò để tiết học đạt hiệu quả tốt hơn. 3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 3.1. ĐỔI MỚI PHẦN CỦNG CỐ 3.1.1. Củng cố bằng các bài thơ nổi tiếng có liên quan Thơ là tiếng nói tâm tình, là thanh âm trong trẻo nhất của bản nhạc lòng. Vì vậy thơ rất dễ đi vào lòng người,mang đến cho người nghe những rung động, những cẩm xúc rất lắng đọng, sâu sắc. Một tác phẩm trong sách giáo khoa Ngữ Văn THPT đã gợi cảm hứng sáng tác cho rất nhiều nhà thơ, và cũng rất nhiều bài thơ nổi tiếng đã ra đời để viết về những nhân vật vànhững tác phẩm như Chữ người tử tù, Chí Phèo, Truyện Kiều...Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều bài thơ có chủ đề, cảm hứng tương đồng các tác phẩm trong SGK . Nếu giáo viên củng cố bằnghọc bằng một bài thơ như vậy, học sinh vừa thấy bài học hấp dẫn, 7 https://kinhtehoc.net/
xúc động, truyền cảm hơn, lại vừa hiểu bài học sâu sắc hơn, có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm và nhân vật. Yêu cầu của cách củng cố này là bài thơ dùng để củng cố phải là bài thơ hay, nội dung sâu sắc và có sự gắn bó, gần gũi với nhân vật, tác phẩm vừa học. Tránh những bài thơ không hay, không có mối quan hệ gần gũi gắn bó với nhân vật, tác phẩm vừa học. Kết thúc bài Chũ người tử tù( Nguyễn Tuân ), giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe bài thơ Chữ người tử tùcủa nhà thơ Đỗ Ngọc Ngân ( thành viên hội văn học nghệ thuậttỉnh Lào Cai ) để học sinhh thấm thía hơn tư tưởng chủ đề của tác phẩm : Chữngười tử tù ( Đỗ Ngọc Ngân ) Như hai mũi tên đồng Bắt nguồn từ hai phía Cùng tìm về chữnghĩa Giữa hang hùm tối tăm Từ tù và cai ngục Một học giả uyên thâm Một chúa trùm đồ tể Như hai mạch nước ngầm Chảy vào kênh thời thế Cai ngục quỳ xin chữ Tử tù cổđeo gông Chân nặng nề xiềng xích Tay tô phượng vẽ rồng In vào hồn núi sông Mới hay Xấu xa như địa ngục Cái đẹp vẫn vượt rào Thắp sáng tâm hồn quỷ Bằng tình người thanh cao. Kết thúc đoạn trích Trao duyên ( Truyện Kiều –Nguyễn Du ), nhiều học sinh có lẽ rất đồng cảm với Kiều, và cũng băn khoăn sao Kiều khổnhư vậy. Trong khi đó thì Thúy Vân ởnhà bình yêu sung sướng. Để học sinh có cái nhìn nhân văn, sâu sắc hơn về nhân vật Thúy Vân, giáo viên có thểđọc bài Tâm sự nàng Thúy Vân của Trương Nam Hương. Qua bài thơ này, học sinh cũng đồng cảm với một phận nữ nhi thời phong kiến Tâm sự nàng Thúy Vân ( Trương Nam Hương ) Nghĩ thương lời chị dặn dò 8 https://kinhtehoc.net/
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim ? Ơ kìa ! Sao chị ngồi im ? Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thể thắt một vòng oan khiên Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn Mấp mô số phận vuông tròn Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu. Là em nói vậy thôi Kiều Sánh sao đời chị ba chiều bão giông Con đò đời chị về không Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường Chị nhiều hờn- giận- yêu- thương Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò Em chưa được thế bao giờ Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu! Kết thúc tác phẩm Tôi yêu emcủa Putskin, học sinh sẽ rất xúc động trước tình yêu sâu sắc và cao thượng của tác giả. Để nhấn mạnh hơn cho học sinh thấy sự cao thượng trong tình yêu, giáo viên có thể đọc bài Đơn phươngcủa Phạm Đức để củng cố Đơn phương ( Phạm Đức ) Tôi tìm em, em tìm ai Để đôi khi tiếng thở dài hòa chung Gần nhau mà chẳng yêu cùng Đơn phương tôi cứ thủy chung một mình Trái tim tôi vẫn để dành Cho em người vẫn vô tình với tôi Còn em lại đến với người Tôi không ghen chỉ buồn thôi thật buồn 9 https://kinhtehoc.net/
Cái bông hoa nở giữa vườn Hương thơm nhiều lúc lại thường bay xa Thôi thì em đó tôi đây Không yêu nhau được dẫu đầy thương yêu Mong em yêu và được yêu Đừng như tôi chỉ một chiều tương tư Học xong tác phẩm Chí Phèo ( Nam Cao ), ắt hẳn học sinh sễ rất cảm động trước mối tình thị Nở, Chí Phèo, hoặc cũng có học sinh còn nhận thức sai, cho rằng đây là mối tình nực cười…Để học sinh hiểu sâu sắc hơnhơn hoặc đúng hơn về mối tình này, cảm nhận rõ hơn vẻđẹp tâm hồn nhân vật thị Nở giáo viên có thể củng cố bằng bài thơ Nỗi niềm thị Nở của tác giả Quang Huy Nỗi niềm Thị Nở ( Quang Huy ) Người ta cứ bảo dởhơi Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi Dởhơi nào dởhơi gì Váy em sắn lệch nhiều khi cũng tình Làng này khối kẻ sợ anh Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay Sợ anh chửi đổng suốt ngày Chỉ mình em biết anh say rất hiền Anh không nhà cửa bạc tiền Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo Cái tên mơ mộng Chí Phèo Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao Quần anh ống thấp ống cao Làm em hồn vía nao nao đêm ngày Khen cho con Tạo khéo tay Nồi này thì úp vung này chứ sao Đêm nay trời ở rất cao Sương thì đẵm quá trăng sao lại nhòa Người ta mặc kệngười ta Chỉ em rất thật đàn bà với anh Thôi rồi đắt lắm tiết trinh Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm. 3.1.2. Củng cố bằng sơ đồ 10 https://kinhtehoc.net/
Thay vì diễn giảng bằng lời những nội dung cần khái quát, giáo viên có thể chuẩn bị các nội dung cần khái quát những nội dung chính theo dạng sơ đồ bằng bảng phụ. Những sơ đồnày tác động mạnh đến thị giác, nhận thức của học sinh, làm học sinh khái quát kiến thức được khoa học, dễ nhớhơn. Tùy theo dặc thù và dung lượng liến thức, giáo viên có thể cung cấp sắn bảng khái quát hoặc để khung bảng khái quát, cho học sinh lên bảng điền nhanh và vắn tắt các kiến thức vừa học, sau đó giáo viên đánh giá cho điểm miệng những học sinh điền đúng kiến thức. Như vậy vừa kiểm tra được mức độ hiểu bài của học sinh, lại vừa tạo hứng thúc học tập cho học sinh Kết thúc bài Tuyên ngôn độc lập ( phân tác giả ), giáo viên có thể cung cấp bảng phụ khái quát lại các ý chính trong sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh trên 3 nét : Quan điểm sáng tác, di sản văn học và phong cách nghệ thuật: Sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh Quan điểm sáng tác - Văn nghệ là vũ khí...phục vụ Cm - Chú trọng tính chân thật và dân tộc của VH… - Chú trọng mục đính, đối tương thưởng thức.. Di sản văn học - Văn chính luận - Truyện kí - Thơ ca Phong cách nghệ thuật: Độc đáo, đa dạng, thống nhất - Văn chính luận - Truyện kí - Thơ ca Với đối tượng học sinh lớp 12a2, là lớp có nhận thức rất yếu, giáo viên có thể sử dụng bảng này để khắc sâu thêm kiến thức cho học sinh. Nhưng với lớp 12 a1 là lớp có nhận thức tương đối tốt, giáo viên có thể để trống các khung trong bảng này và cho gọi học sinh lên điền nhanh kiến thức và cho điểm miệng học sinh đó nếu làm tốt. Học đến bài Tác gia Tố Hữu, giáo viên có thể dùng sơ đồ khái quát lại phong cách thơ Tố Hữu về khía cạnh nội dung và nghệthuật để học sinh khắc sâu hơn kiến thức vừa học: 11 https://kinhtehoc.net/
Phong cách thơ Tố Hữu Nội dung: là nhà thơ trũ tình chính trị Nghệ thuật : Đậm đà tính dân tộc Mang đậm tính sử thi Ngôn ngữ : Sử dụng lối nói quen thuộc… Hướng tới niềm vui lớn, lẽ sống lớn, tình cảm lớn Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, chân thành Thể thơ truyền thống … Bản thân người viết cũng nhiều lần dùng bảng phụ để củng cố dặn dò và nhận thấy dùng bảng phụ rất hiệu quả khi khái quát lại kiến thức bài học. Tuy nhiên, cuối mỗi tiết chỉ nên dùng 1 bảng phụ để khái quát nội dung cần nhấn mạnh. Nếu ử dụng tràn lan vài bảng phụ để khái quát lại tất cả nội dung bài học, phương pháp này sẽ không thật hiệu quả. Nếu không chuẩn bị trên bảng phụ để học sinh cùng tham gia, giáo viên có thể trình chiếu bản đồ tư duyvào phần củng có bài học. Bản đồ tư duy sẽ giúp khái quát lại nội dung bài vừa học 1 cách khoa học, có hệ thống, làm học sinh ghi nhớ tốt hơn. 3.1.3. Củng cố bằng trò chơi trắc nghiệm Trò chơi trong học tập theo tinh thần học mà chơi, chơi mà học sẽ tạo cho học sinh tâm lí thoải mái, hứng thú khi tiếp nhận kiến thức. Khi củng cố cũng vậy, nếu giáo viên áp dụng trò chơi vào củng cố, học sinh vừa có được phần củng cố kiến thức mới lạ, lại vừa hào hứng hơn trong học tập. 12 https://kinhtehoc.net/
bị sẵn các gói câu hỏi ( Khoảng 5 câu trắc nghiệm đúng sai một nhóm ), gọi 3 nhóm tham gia trò chơi ( mỗi nhóm 02 học sinh ). Nhóm 1 có 1 học sinh đọc câu hỏi, 1 học sinh trả lời 5 câu hỏi đó theo lựa chọn đúng hoặc sai, sau đó lần lượt đến nhóm khác với gói câu hỏi khác. Nếu nhóm nào trong 1 phút trả lời đúng nhất các đáp án, nhóm đó sẽ được điểm miệng, được khen ngợi. Nhóm học sinh lên bảng có thể là đại diện cho Tổ, hoặc có tinh thần xung phong. Tuy nhiên, cũng có thể ta gọi những học sinh không giơ tay để các em lên chơi, nếu trả lời sai thì động viên chứ không cho điểm thấp. Điều này giúp cho các em mạnh dạn hơn trong các hoạt động học tập. Ví dụ, khi kết thúc bài Vợ chồng A Phủ, người viết có 3 goi câu hỏi trắc nghiệm sau Gói 1: Những chi tiết, nhận định nào dưới đây là đúng ? 1. Tô Hoài là nhà văn có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học Việt Nam 2. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủin trong tập Cứu đất cứu mường 3. Cha mẹ Mị lấy nhau không có tiền phải vay nhà thống lí, mỗi năm trả lãi bằng một nương ngô 4. Tết năm ấy, sau khi nghe tiếng khèn, Mị ngồi nhẩm thầm theo lời bài hát của người đang thổi 5.Nhân vật Mị có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ. ( Đáp án : 1,3 ,5 đúng, 2,4 sai ) Gói 2: Những chi tiết, nhận định nào dưới đây là đúng ? 1. Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhâu trên đất nước ta. 2. Truyện Vợ chồng A Phủđược viết vào năm 1954, khi chiến thắng Điện Biên Phủ 3. Mị không dám ăn lá ngón chết vì khiếp sợ cái chết đau đớn. 4. Căn buồng của Mị kín mít, cửa sổ là một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra lúc nào cũng tháy trăng trắng, không biết là sương hay nắng.. 5. Tác phầm Vợ chồng APhủmang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc ( Đáp án1, 4, 5 đúng, 2,3 sai ) Gói 3. Những chi tiết, nhận định nào dưới đây là đúng ? 1. Sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả những sự thật của đời thường 2. Mấy năm làm dâu cho nhà thống lí, lúc nào Mị cũng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Người viết đã củng cố một số bài học bằng trò chơi này. Người viết chuẩn 13 https://kinhtehoc.net/
3. Ngày Tết, Mị lén lấy rượu uống ừng ực từng bát như uống hết khổ đau của phần đời đã qua và uống cả những khát khao của phần đời chưa tới. 4. Khi thấy dòng nước mắt trên má A Phủ, Mị nghĩ đàn ông con trai gì mà lại khóc, sao mà yếu đuối vậy 5. Sau khi cởi trói cho A Phủ, A Phủ khuỵu xuống, Mị dìu A Phủ đứng lên rồi cả hai cùng nắm tay nhau chạy đi. ( Đáp án 1,2,3 đúng, 4,5 sai ) Lần lượt 3 cặp lên thực hiện hỏi và trả lời, mỗi cặp có thời gian suy nghĩ và trả lời tối đa 1 phút, giáo viên cùng học sinh còn lại sẽ làm giám khảo và đánh giá. Việc củng cố bài học bằng trò chơi trắc nghiệm có thể áp dụng được ở rất nhiều bài. Việc củng cố theo hình thức trên đòi hỏi giáo viên cần có sự chuẩn bị trước, biên soạn các gói câu hỏi, đồng thời đóng vai trò là người điều khiển để không khí tham gia trò chơi sôi nổi, vui vẻ. Các câu hỏi cần bám sát nội dung bài học. Tùy theo đối tượng học sinh để biên soạn mức độ khó của câu hỏi. Bài học vừa được ôn lại qua hệ thống câu hỏi, học sinh lại vừa được học tập trong bầu không khí thân thiện, cởi mở, vui tươi. 3.1.4. Củng cố bằng âm nhạc, trích đoạn phim, clip ngắn. Âm nhạc, phim, clip ngắn thường được sử dụng trong phần khởi động của bài học. Điều này rất tốt bởi nó tạo cho học sinh tâm thế hứng khởi với bài học. Tuy nhiên, phần khởi động thường có thời lượng chỉ từ 1 đến 2 phút. Trong 2 phút đó, giáo viên vừa phải tạo tâm thế hứng thú học tập cho học sinh, lại vừa phải giới thiệu khái quát mục tiêu bài học, nên nhiều khi không đủ thời gian để trình chiếu trọn vẹn 1 bài hát, 1 trích đoạn phim hay 1 clip ngắn. Vậy nên, trong một số trường hợp, cố thể sử dụng 1 bài hát, 1 trích đoạn phim hay 1 clip ngắnở phần củng cố, tạo nên ấn tượng sâu sắc hơn về bài học cho học sinh. Âm nhạc rất dễ lan tỏa vào tận sâu thẳm trong tâm hồn, trái tim mỗi con người. Dư âm lắng đọng mà 1 bài hát hay để lại đôi khi theo con người đến suốt cuộc đời. Việc kết hợp 1 bài hát phù hợp với nội dung bài học sẽ tạo được một hiệu ứng tâm lí rất tốt để âm nhạc hỗ trợ cho cảm xúc văn học của học sinh thăng hoa sau một giờ Ngữ văn. Bản nhạc, bài hát được chọn cần phải có sự phù hợp, tương thích nhất định với bài học thì hiệu ứng này mới hiệu quả. Ví dụnhư sau khi kết thúc bài Đàn ghi- ta của Lor- ca ( Thanh Thảo ), giáo viên có thể cho học sinh nghe bài Nếu tôi chết hãy chôn tôi với cây dàn Ghita ( Thế Hiển ) để học sinh có ấn tượng và cảm nhận sâu sắc hơn về hình tượng nhân vật Lorca. Sau khi học xong bài thơ Sóng ( Xuân Quỳnh) , có thể cho học sinh nghe bài Thuyền và Biển ( Nhạc Phan Huỳnh Điểu, thơ Xuân Quỳnh ) để học sinh hiểu rõ hơn hồn thơ Xuân Quỳnh và tâm trạng, cảm xúc của người con gái đang yêu. Học xong bài Ai đãđặt tên cho dòng sông ( Hoàng Phủ Ngọc Tường ) có thể cho học sinh nghe bài hát Dòng sông ai đã đặt tên ( sáng tác trần Hữu Pháp ) cùng clip vè sông Hương để học sinh thêm yêu mến con sông đầy trữtình, thơ mộng này. Khi học xong bài Thông điệp nhân ngày thế 14 https://kinhtehoc.net/
giới phòng chống AIDS của Cô – phi An – nan, giáo viên cos thể cho học sinh nghe bài hát và clip Hòa nhịp con tim ( sáng tác Huy Tuấn ) đầy xúc động : Cùng hoà nhịp con tim Cùng tình người ấm áp Cùng nhau chung giấc mơ khắp nơi trên đất này Mọi người sẻ chia với nhau từ niềm vui hay nỗi buồn Giống như lời mẹ ngày ấu thơ Sẻ chia với nhau vui buồn. Nhớ vẫn nhớlúc xưa ta còn thơ Phút ấm áp cánh tay mẹ nhẹ ru Trao cho ta yêu thương hạnh phúc mỗi khi ta buồn vui Có nơi mẹ trở che Hãy nắm lấy cánh tay cần sẻ chia Hãy đến với trái tim nồng ấm tình người Trao cho nhau yêu thương hạnh phúc Tựa lời mẹru tháng ngày, ru ngày xưa bé thơ Cùng hoà nhịp con tim, cùng tình người ấm áp Cùng nhau chung sức ta xây nên trái đất này Chỉ còn tình yêu chứa chan nồng nàn trong tim mỗi người Hãy cho nhau từng ngày ấm êm cùng nhau sống trong yên bình Hãy nắm lấy cánh tay cần sẻ chia Hãy đến với trái tim nồng ấm tình người Trao cho nhau yêu thương hạnh phúc Tựa lời mẹru tháng ngày, ru ngày xưa bé thơ Cùng hoà nhịp con tim, cùng tình người ấm áp Cùng nhau chung sức ta xây nên trái đất này Chỉ còn tình yêu chứa chan nồng nàn trong tim mỗi người Hãy cho nhau từng ngày ấm êm cùng nhau sống trong yên bình Cả bài hát và clip dàikhoảng4 phút cho học sinh những giây phú thật xúc động về tình người, vềsự cảm thông, sẻ chia trong cuốc sống. Có lẽ hiệu quả của bài học sẽ nhân lên gấp bộitừ bài hát này. Khi dạy nghị luận xã hội, có rất nhiều vấn đề về hiện tượng đời sống hay tư tưởng đạo lí đã được dựng thành các bộ phim ngắn hay clip làm xúc động tới hàng triệu con người. Qua mạng Internet, giáo viên có thể sưu tầm, chọn lọc các phim ngắn, clip này, cho học sinh xem để học sinh hiểu sâu sắc hơn về các vấn đề xã hội đã và đang quan tâm như : An toàn giao thông, ô nhiễm môi trường, sự gian lận trong thi cử, tấm gương người tốt việc tốt, bệnh vô cảm, tinh thần tự học…Chỉ cần chiếu 1 clip tổng hợp về tai nạn giao thông hay ô nhiễm môi 15 https://kinhtehoc.net/
trường khoảng 4 phút , có lẽ sẽ hiệu quả hơn cả 1 buổi tuyên truyền. Những hình ảnh,minh chứng, lời bình, thông điệp từ clip sẽ cho học sinh biết cách đánh giá, bình luận về một hiện tượng đồi sống, 1 tư tưởng đạo lí rõ hơn. Khi lựa chọn các trích đoạn phim ngắn, các clip cho học sinh xem để củng cố bài học, giáo viên cần lưu ý lựa chọn nững bộ phim, clip mang tính nhân văn, có hiệu quả giáo dục cao và phải gắn bó mật thiết với nội dung bài học. tránh những clip phản cảm,không mang tính giáo dục. 3.2. ĐỔI MỚI PHẦN DẶN DÒ 3.2.1.Yêu cầu chuẩn bị soạn bài bằng phiếu học tập Trong sách giáo khoa, có nhiều bài đưa ra các câu hỏichung chung hoặc tương đối khó với học sinh vùng cao. Ví dụ như trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông( Hoàng Phủ Ngọc Tường ) có 5 câu, trongđó có những câu chung chung ( Câu 1: Sông Hương vùng thượng lưu được miêu tả như thế nào ? ) hoặc có câu rất khó ( câu 2 : Đoạn tả sông Hương chỷ xuôi về đồng bằng và ngọi vi thành phố bộc lộ những phẩm chất nào trong ngòi bút tác giả? Hiệu quả thẩm mĩ của lối viết đó ). Thực tế học sinh vùng cao, nhiều em học đến lớp 12 còn chưa sử dụng thành thạo tiếng Việt, còn chưa hiểu thượng lưu , thủ pháp hay hiệu quả thẩm mĩ là gì. Nếu chỉ hỏi Sông Hương vùng thượng lưu được miêu tả như thế nào, nhiều học sinh chỉ biết trả lời trong vở soạn là được miêu rả rất đẹp. Còn về hiệu quả thẩm mĩ của loiis viết trong ý hỏi của câu 2, thì gần như 100 % học sinh không biết trả lời. Xuất phát từ thực tế như vậy, người viết đã thiết kế phiếu học tập, phát cho sinh về nhà chuẩn bị nội dung cho bài học ngày hôm sau với những yêu cầu cụ thể, rõ rằng hơn. Ví dụ: Phiếu học tập bài :AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG Chuẩn bi cho tiết 1 Yêu cầu : Đọc văn bản “ Ai đã đặt tên cho dòng sông trong” trong sách giáo khoa , hoàn thiện phiếu sau Sông Hương trên dãy Trường Sơn ( Hoàng Phủ Ngọc Tường ) Tính cách con sông Giữa lòng Trường Sơn Hình ảnh so sánh và miêu tả : Nghệ miêu tả thuật 16 https://kinhtehoc.net/
Trước khi khỏi rừng ra Yêu cầu chuẩn bị cho tiết 2 :Đọc văn bản và hoàn thiện : Sông Hương với thành phố Huế thành phố Huế Tính cách con sông Ở ngoại vi thành phố Huế Hình ảnh so sánh và miêu tả : Nghệ thuật miêu tả Trong lòng Trước khi biệt Huế từ Sông Hương với lịch sử, thơ ca Sông Hương với lịch sử Nhận định Dẫn chứng Sông Hương với thơ ca 17 https://kinhtehoc.net/
Hoặc với bài người lái đò sông Đà, người viết cung cấp cho học sinh phiếu học tập về chuẩnbị cho tiết 1 như sau Phiếu học tập : Người lái đò Sông Đà ( Nguyễn Tuân ) Soạn bài cho tiết 1 : Yêu cầu đọc tác phẩm, hoàn thiện phiếu sau: Hình tượng con sông Đà nước Đá trên mặt sông Sông Đà Sông Đà hung bạo Khía cạnh miêu tả Vách đá bên bờ sông Chi tiết miêu tả Nghệ thuật miêu tả 2 Mặt ghềnh Hát Loong Xoáy nước trên sông Thác Từ trên cao nhìn xuống 18 https://kinhtehoc.net/
Từ trong rừng ra Dưới lòng sông nhìn lên trữ tình bởi học sinh sẽ xác định rõ hơn nội dung cần chuẩn bị, từ đó chuẩn bị tốt hơn cho bài học mới. Đồng thời trong bài học mới, học sinh sử dụng chính pheeius này để so sánh với phiếu của bạn, tìm ra điểm chung khi có yêu cầu thảo luận, 3.2.2.Yêu cầu làm bài tập về nhà hoặcchuẩn bị bài mới theo nhóm Có những bài học nội dungyêu cầu về nhà hoặc yêu cầuchuẩn bị cho bài mới dài, cần nhiều tư liệu, nội dung…mà cá nhân học sinh không thể chuẩn bị được hết. Giáo viên có thể dặn dò học sinh về nhà làm bài tập hoặc chuẩn bị bài mới theo nhóm. Việclàm bài tập hoặcchuẩn bị theo nhóm giúp học sinh có kĩ năng hoạt động theo nhóm tốt hơn, đồng thời phát huy sức mạnh tập thể, hoàn thiện bài tập và chuẩn bị tốt nhất cho bài học mới. Ví dụ như khi chuẩn bị học bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống, giáo viên giao cho học sinh các bài tập theo nhóm như sau - Tổ 1: Sưu tầm các hình ảnh về tình trạng vi phạm luật an giao thông ở Si Ma Cai ( yêu cầu ít nhất 10ảnh, chụp tình trạng vi phạm của học sinh, của người đi đường nói chung , của các hộ kinh doanh lấn chiến lòng đường …) - Tổ 2.: Sưu tầm các hình ảnh về tình trạng ô nhiễm môi trường ở Si Ma Cai ( yêu cầu ít nhất 10ảnh, chụp tình trạng ô nhiễm ở khu chợ, ở khu dân cư, ở khu khai thác Chì ở Bản Mế …) - Tổ 3: Sưu tầm các hình ảnh về tình trạng tảo hônở Si Ma Cai ( yêu cầu ít nhất 10 ảnh, chụp về hoàn cảnh cuộc sống của một số cặp vợ chồng tảo hôn ở Si Ma Cai …) Việc giao cho nhóm chuẩn bị các bức ảnh này nhằm làm cho tư liệu bài học Nghị luận về một hiện tượng đời sốngthêm phong phú, chân thực, sinh động . Bên cạnh đó, chính trong quá trình đi chụp ảnh, các nhóm cũng sẽ tìm hiểu về các hiện tượng đời sống đang xảy ra ở Si Ma Cai Tương tự như vậy, trước khi dạy bài Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, giáo viên giao việc cho các nhóm như sau - Tổ 1: Sưu tầm các tờ rơi tuyên truyền liên quan đến HIV/AIDS ( Ở trung tâm y tế dự phòng Huyện, ở trạm y tế xã, ở thư viện…) Việc cung cấp phiếu học tập cho học sinh soạn bài như vậy rất hiệu quả 19 https://kinhtehoc.net/
- Tổ 2: Sưu tầm 10 hình ảnh về các hoạt động giúp đõ bệnh nhận HIV/AIDS của các cá nhân, tổ chức - Tổ 3: Sưu tầm 1 clip xúc động về sự sẻ chia, đồng hành với bệnh nhân AIDS của cộng đồng Tài liệu sưu tầm được sẽ được giáo viên chọn lọc, dùng trong chính tiết học. Các em sẽ thấy tự hào khi mình cũng đóng góp một phần công sức vào thành công của bài học. Nhóm nào làm việc tích cực, chất lượng sẽ được tuyên dương. Nhóm nào chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, giáo viên sẽ tìm hiểu nguyên nhân, chỉ ra cho các em những tồn tại, động viên các em cố gắng hơn trong các lần làm việc nhóm tiếp theo 4. HIỆU QUẢ CỦA SKKN Qua thực tiễn giảng dạy, người viết đã ứng dụng và khảo sát, thấy được mức độ hiểu bài, sự hứng thứcủa học sinh đối với bài học và hiệu quả giờ Ngữ văn tăng lên. Đối với những lớp đã áp dụng đề tài sáng kiến này, so với lớp không áp dụng, người viết nhận thấy ở lớp được áp dụng học sinh hứng thú học bài hơn,và tỷ lệ học sinh hiểu bài qua khảo sát cuối giờ học cao hơn, phần chuẩn bị bài cho tiết học sau của học sinh tốt hơn. Cụ thể người học đã chọn 2 lớp để tiến hành thể nghiệm và khảo sát để so sánh đối chiếu. Người viết chọn 2 lớp 12a2, 12a3 có sĩ số và chất lượng học sinh tương đối đồng đều nhau. Người viết đã thống kê chất lượng khảo sát đầu năm, sau đó phát phiếu thăm dò ý kiến học sinh yêu thích học môn Ngữ văn ngay từ đầu năm học. sau học kì 1, người viết thống kê chất lượng 2 lớp và lại pjats phiếu thăm dò ý kiến học sinh yêu thích học môn Ngữ văn . Kết quả thu được đã có sự khác biệt tương đối rõ : Kết quả khảo sát đầu năm Số học sinh Khá TB yếu sinh thích học Văn 2 15 19 18 Kết quảcuối học kì 1 Kết quả học sinh Khá Lớp 12a2 ( Không áp dụng sáng kiến này ) 36hs Số học sinh Số học sinh Tỉ học lệ Số học sinh TB Số học sinh yếu Tỉ lệ học sinh thích học Văn 5 19 12 23 5,5 % 41,6 % 52,9 % 50 % 13,8 % 52,7 % 33,3 % 63,3 % 4 16 17 21 7 25 5 29 Lớp 12a3 ( Có áp dụng 20 https://kinhtehoc.net/
sáng kiến này ) 37hs 10,8 % 43,2 % 46,0% 56,7% 19,0% 67,5% 13,5% 78,3% Như vậy , với lớp có áp dụng đề tài này, người viết nhận thấy hiệu quả hơn một cách rõ ràng. Cụ thể với lớp 12a2 không áp dụng, tuy chất lượng có tăng lên so với khảo sát nhưng không cao bằng lớp 12a3. ( Tỉ lệ học sinh TB 12a2 tăng lên 11,1 % trong khi 12a3 tăng lên 24,3%. Tỉ lệ học sinh yếu 12a2 giảm được 19,6 %, trong khi 12a3 giảm được 32,5% ) Tỉ lệ yêu thích học môn Ngữ Văn 12a2 tăng lên 13,3 %, trong khi 12a3 tăng lên 21,6% . Tất nhiên hứng thú của học sinh và hiệu quả giờ giảng Ngữ văn tăng lên tuỳ thuộc phần lớn vào quá trình hoạn động của thầy và trò trong bài học,sự cố gắng nỗ lực của học sinh trong giờ học và việc học bài ở nhà, nhưng việc chú ý đầu tư cho phần củng cố dặn dòcó tác dụng bổ trợ rất tốt cho học sinh trong hoạt động tìm hiểu, chiếm lĩnh tác phẩm. Nó như một bậc thang không thể thiếu trên tiến trình chiếm lĩnh tri thức bài học. Nếu bỏ qua hoặc chú ý không đúng mức tới khâu này, giáo viên sẽ không giúp học sinh có cơ hội hiểu bài, nắm bài một cách tối đa so với mục tiêu đề ra. Để tài này có khả năng ứng dụng và triển khai rộng rãi trong hầu hết các tiết học trong chương trình Ngữ Văn THPT ( trừ tiết kiểm tra viết 1 tiết, 2 tiết, bài kiểm tra học kì ). Các bài đều có phần củng cố dặn dò, và giáo viên có thể căn cứa vào đặc thù, nội dung kiến thức từng bài học để vận dụng, sáng tạo các cách củng cố dặn dò cho hiệu quả. Thời gian của phần này chỉ chiếm từ 4 đến 5 phút nên giáo viên có thể thiết kế dễ dàng, không mất quá nhiều thời gian. Hơn nữa, trong thời đại công nghệ thông tin, các tư liệu liên quan đến bài học như thơ, nhạc, phim…rất nhiều, giáo viên có thể khai thác nguồn học liệu phong phú khổng lồtừ Internetphục cụ cho phần củng cố . Phần mềm bản đồ tư duy cũng được cung cấp miễn phí, giáo viên có thể ứng dụng phần mềm đó để thiết kế các phần củng cố dặn dò cho phù hợp III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Đề tài này rất thiết thực và hữu ích với mỗi giáo viên trong mỗi tiết dạy hàng ngày. Phần củng cố dặn dò luôn có trong các tiết dạy theo cách truyền thống hay hiện đại. Nhiêu giáo viên cũng đã có một số cách làm đổi mới, sáng tọa về phần này.Tuy nhiên việc nghiên cứu về các cách thức tiến hành phần củng cố dặn dò trong đề tài này cũng lạiđược đề cập, nghiên cứumột cách cụ thể, bài bản trong các công trình nghiên cứu các cấp, mà đa phần giáo viên thực hiện phần củng cố dặn dò theo kinh nghiệm cá nhân của mình. Vì vậy, người viết thấy rằng mình đã đề cập tới một vấn đề tuy quen thuộc nhưng đã có hướng nhìn, cách làm mới. Việc ứng dụng đề tài này là một cách thức hiệu quả làm tăng hiệu quả giờ học Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay. 21 https://kinhtehoc.net/
Củng cố dặn dò là rất quan trọng trong việc tạo hứng thú cho học sinh cũng như làm tăng hiệu quả của giờ dạy Văn. Chú trọng đầu tư thích đáng cho phần này , giáo viên sẽ thu được những thành công trong giờ Văn . Tuy nhiên như đã trình bày, hiệu quả gìơ Văn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: năng lực cảm thụ của học sinh, phương pháp hướng dẫn tìm hiểu của giáo viên, đặc điểm nội dung, kiến thức của bài học....Muốn giờ dạy và học thành công, người giáo viên phải chú ý chuẩn bị, đầu tư kĩ lưỡng trong tất cả các khâu của bài giảng. Không thể có sự thành công nếu việc đầu tư, đổi mới chỉ diễn ra ở một phần của bài học. Hiệu quả của bài học là tổng hợp, là sự cộng hưởng của tất cả các phần, các khâu, cả tiến trình của một bài học, cũng như sự tâm huyết của giáo viên, sự hăng say chăm chỉ của học sinh. Người viết chỉ dừng lại ở một số cách thức củng cố, dặn dò mà người viết đã áp dụng trong thực tiễn và thấy có hiệu quả. Chắc chắn sẽ còn nhiều giáo viên có rất nhiều cách củng cố dặn dòkhác mà vẫn tạo được hứng thú cho học sinh và nâng cao hiệu quả giờ Ngữ văn. Tất cả cố gắng tìm tòi, đúc kết của chúng ta cũng chỉ nhằm hướng tới mục tiêu cao nhất là học sinh hiểu bài, nắm được bài một cách tốt nhất. Kiến nghị: Tổ chuyên môn xem xét và nhân rộng sự thể nghiệm đề tài này trong các lớp khác trong trường. Người viết: Vi Thị Huế 22 https://kinhtehoc.net/
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cẩm nang học tốt văn học trong nhà trường THPT/ Nguyễn Đăng Mạnh / NXBGD/ 2002\ 2. Lí luận văn học / Phương Lựu (chủ biên) / Nxb Giáo dục / 2003 3. Phương pháp dạy học văn / Phan Trọng Luận / Nxb ĐHQG / 2000 4. Thiết kế bài học Ngữ văn 12 ( tập 1 ) + Tập 2 /Phan trọng Luận / NXB Giáo dục / 2009 5. Sách giáo viên. Ngữ Văn 10 tập 1 / Phan Trọng Luận ( chủ biên)/ NXBGD / 2011 6. Sách giáo viên. Ngữ Văn 10 tập 2 / Phan Trọng Luận ( chủ biên)/ NXBGD / 2011 7. Sách giáo viên. Ngữ Văn 11tập 1 / Phan Trọng Luận ( chủ biên)/ NXBGD / 2011 8. Sách giáo viên. Ngữ Văn 11tập 2 / Phan Trọng Luận ( chủ biên)/ NXBGD / 2011 9. Sách giáo viên. Ngữ Văn 12 tập 1 / Phan Trọng Luận ( chủ biên)/ NXBGD / 2011 10. Sách giáo viên. Ngữ Văn 12 tập 2 / Phan Trọng Luận ( chủ biên)/ NXBGD / 2011 23 https://kinhtehoc.net/