0 likes | 13 Views
Lu1ecbch su1eed lu00e0 mu1ed9t trong nhu1eefng mu00f4n khoa hu1ecdc ru1ea5t quan tru1ecdng, vu00ec mu00f4n Lu1ecbch su1eed giu00fap cu00e1c em biu00eat u0111u01b0u1ee3c quu00e1 tru00ecnh phu00e1t triu1ec3n cu1ee7a lu1ecbch su1eed lou00e0i ngu01b0u1eddi, nhu1ea5t lu00e0 biu1ebft u0111u01b0u1ee3c quu00e1 tru00ecnh du1ef1ng nu01b0u1edbc vu00e0 giu1eef nu01b0u1edbc cu1ee7a du00e2n tu1ed9c ta qua bu1ed1n nghu00ecn nu0103m lu1ecbch su1eed. u0110u00f3 lu00e0 mu1ed9t quu00e1 tru00ecnh lao u0111u1ed9ng cu1ea7n cu00f9, su00e1ng tu1ea1o vu00e0 chiu1ebfn u0111u1ea5u lu00e2u du00e0i, gian khu1ed5, hi sinh cu1ee7a cu00e1c thu1ebf hu1ec7 ngu01b0u1eddi Viu1ec7t Nam. Qua viu1ec7c hu1ecdc lu1ecbch su1eed, giu00fap cu00e1c em hiu1ec3u u0111u01b0u1ee3c giu00e1 tru1ecb cu1ee7a cuu1ed9c su1ed1ng vu00e0 bu1ed3i du01b0u1ee1ng cho cu00e1c em lu00f2ng tu1ef1 hu00e0o du00e2n tu1ed9c, su1ef1 biu1ebft u01a1n nhu1eefng ngu01b0u1eddi cu00f3 cu00f4ng vu1edbi nu01b0u1edbc, tu1eeb u0111u00f3 cu00e1c em u00fd thu1ee9c u0111u01b0u1ee3c tru00e1ch nhiu1ec7m cu1ee7a mu00ecnh u0111u1ed1i vu1edbi cu00f4ng cuu1ed9c xu00e2y du1ef1ng vu00e0 bu1ea3o vu1ec7 u0111u1ea5t nu01b0u1edbc hiu1ec7n nay.
E N D
MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP GÂY HỨNG THÚ TRONG DẠY HỌC MÔN HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS TRẦN PHÚ I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1 Lý do chọn đề tài Lịch sử là một trong những môn khoa học rất quan trọng, vì môn Lịch sử giúp các em biêt được quá trình phát triển của lịch sử loài người, nhất là biết được quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua bốn nghìn năm lịch sử. Đó là một quá trình lao động cần cù, sáng tạo và chiến đấu lâu dài, gian khổ, hi sinh của các thế hệ người Việt Nam. Qua việc học lịch sử, giúp các em hiểu được giá trị của cuộc sống và bồi dưỡng cho các em lòng tự hào dân tộc, sự biết ơn những người có công với nước, từ đó các em ý thức được trách nhiệm của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tôi thấy học sinh trường Trần Phú quan tâm nhiều đến các môn như Toán, Lý, Hóa và Anh văn, còn môn Lịch sử và các môn khoa học xã hội nói chung, hầu như chỉ học để đối phó. Tình hình đó đã dẫn đến sự hiểu biết lịch sử của các em rất hạn chế, chất lượng bộ môn giảm sút so với nhiều năm trước. Vậy, làm thế nào để cải thiện chất lượng bộ môn! Tôi cho rằng, chỉ có cách duy nhất là giáo viên phải luôn tạo được sự hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ Lịch sử. Trăn trở trước thực trạng đó đã nhiều năm, tôi đã học hỏi và rút ra một số kinh nghiệm về sử dụng phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử, làm cho môn học không trở nên nặng nề, khô khan, nhàm chán, từ đó nâng cao dần chất lượng bộ môn. I.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Trong dạy học lịch sử cũng như các môn học khác, có rất nhiều phương pháp. Trong một bài giảng, giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học, nhưng sử dụng các phương pháp đó như thế nào cho phù hợp, cho hiệu quả, tạo được sự hứng thú cho các em là một vấn đề rất quan trọng. Trong điều kiện, hầu hết các phòng học của trường Trung học cơ sở Trần phú đã được lắp đặt máy vi tính và màn hình trình chiếu, nên tôi đã triệt để sử dụng phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Tôi đã ứng dụng công nghệ thông tin để giới thiệu chân dung các nhân vật lịch sử, những thành tựu khoa học - kĩ thuật của con người; tường thuật diễn biến các chiến dịch, các trận đánh; sử dụng những đoạn phim tư liệu, phương pháp thảo luận nhóm,...đồng thời kết hợp sử dụng các phương pháp truyền thống như miêu tả, tường thuật bằng phương pháp trình bày miệng của giáo viên và sử dụng thơ ca, âm nhạc vào giảng dạy lịch sử. I.3 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sử dụng phương pháp tạo hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử. I.4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu Đến năm học 2010 - 2011, ở khối 9 của trường THCS Trần Phú đã có lớp 9A và 9B lắp máy vi tính và màn hình trình chiếu, còn 9C và 9D chưa lắp đặt, nên đề tài GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 1 https://tailieumamnon.net/
này tôi nghiên cứu về việc sử dụng một số phương pháp dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử, trong đó có ứng dụng công nghệ thông tin. Đề tài được thực hiện ở lớp 9A và 9C năm học 2010-2011. I.5 Phương pháp nghiên cứu Bước 1. Lập thư mục Để làm đề tài nay, tôi đã sử dụng một số tư liệu sau: Sổ điểm lớp 9Avà 9C năm học 2010 - 2011trường THCS TRần Phú Sách giáo khoa Lịch sử 9. NXB giáo dục Sách Phương pháp học tập và nghiên cứu lịch sử. Phan Ngọc Liên - Nguyễn Thị Côi - Đặng Văn Hồ. NXB Giáo dục Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III. Đỗ Thanh Bình - Đào Thị Hồng - Phan Ngọc Liên - Nguyễn Xuân Trường. NXB Giáo dục Bước 2. Đọc tài liệu và ghi chép tư liệu Sau khi đã lập thư mục, tôi xem lướt qua các tài liệu, xác định những vấn đề cơ bản có liên quan đến đề tài và đọc kĩ, ghi chép lại những vấn đề đó. Bước 3. Thu thập và xử lí tư liệu Sau khi đọc và ghi chép tư liệu, tôi thu thập những tư liệu cần thiết và phân tích các tư liệu đó xem có khách quan, xác thực không. Bước 4. Quan sát, thực nghiệm Bước quan sát: Tôi đã tiến hành quan sát để ghi nhận một cách đầy đủ và chuẩn xác thực trạng học sinh ngại học lịch sử, không hứng thú với môn lịch sử ở trường Trung học cơ sở Trần Phú. Bước thực nghiệm: Sau khi đã quan sát thấy thực trạng trên là đúng, tôi đã áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại như ứng dụng công nghệ thông tin vào trình chiếu hình ảnh, cho nghe những bài hát có liên quan đến bài học, tổ chức trò chơi, kết hợp với các phương pháp truyền thống như miêu tả, tường thuật, sử dụng văn học và âm nhạc vào thực tế giảng dạy làm thay đổi thực trạng trên. Bước 5. Giải quyết vấn đề và trình bày vấn đề nghiên cứu. Sau khi đã tiến hành thực nghiệm, cho thấy việc sử dụng các phương pháp dạy học trên đã giúp học sinh hứng thú hơn và có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử, chất lượng đại trà của môn Lịch sử được naag lên. Vì vậy, tôi quyết định trình bày vấn đề đã nghiên cứu để các đồng nghiệp cùng tham khảo. II. PHẦN NỘI DUNG II.1 Cơ sở lí luận Môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học môn Lịch sử rất phong phú, đa dạng, bao gồm các phương pháp hiện đại (thảo luận nhóm, đóng vai...) và GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 2 https://tailieumamnon.net/
các phương pháp truyền thống (trực quan, kể chuyện...). Để việc dạy học có hiệu quả, người giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với bài học, với đối tượng học sinh nhằm tạo cho học sinh hứng thú học tập. Theo luật giáo dục Việt Nam, "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tư duy, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tư tưởng tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh" II.2 Thực trạng a. Thuận lợi, khó khăn Thuận lợi: Về đội ngũ giáo viên: Trường Trung học cơ sở Trần Phú có đủ giáo viên dạy Lịch sử, được đào tạo chính quy. Giáo viên có ý thức tự học, tự rèn, nhiệt tình trong công tác giảng dạy. Về học sinh: Học sinh được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập, phần lớn có ý thức học tập. Về thiết bị đồ dùng dạy học của giáo viên: được trang bị đầy đủ, đặc biệt có 2/4 lớp 9 có lắp đặt máy vi tính và màn hình trình chiếu. Khó khăn: Do đặc điểm của bộ môn Lịch sử là học sinh phải tìm hiểu những gì đã diễn ra trong quá khứ; lịch sử lại gắn liền với thời gian; các kiến thức lịch sử ít khi lặp lại như kiến thức của các môn Toán, Lý, Hóa,...vì vậy học sinh không được củng cố thường xuyên nên rất khó ghi nhớ. Từ đặc điểm của bộ môn dẫn đến tâm lí các em ngại học lịch sử, không hứng thú khi phải tiếp xúc với các kiến thức lịch sử, kể cả những học sinh chăm học, có ý thức tốt. Mặt khác, do yêu cầu thực tế của cuộc sống, một bộ phận phụ huynh muốn hướng các em vào việc học tốt các môn khoa học tự nhiên và Anh văn, để làm cơ sở thi đại học và tìm kiếm việc làm sau này. Tất cả những yếu tố trên đã làm cho các em không có hứng thú học lịch sử. Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên vào dạy học lịch sử còn có những hạn chế nhất định. b. Thành công - hạn chế Thành công: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử đáp ứng được yêu cầu cung cấp hình ảnh đẹp, sinh động, giúp các em nắm bắt kiến thức dễ dàng và nhớ lâu. Việc sử dụng các phương pháp như miêu tả, tường thuật (kể chuyện), thơ ca và âm nhạc cũng phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh. Ở tuổi đó, các em tiếp thu tương đối đầy đủ về sự kiện, hiện tượng được miêu tả, tường thuật và cảm thụ được tương đối tốt về thơ và nhạc, nên có tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm của các em. Hạn chế: Nếu giáo viên không biết chọn lọc những thông tin cần thiết mà tham lam, ôm đồm, đưa quá nhiều hình ảnh; sử dụng quá nhiều tài liệu tham khảo; miêu tả, tường thuật dài dòng ...dễ dẫn đến tình trạng không đảm bảo thời gian cho giờ dạy. c. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Trong những năm gần đây, do có nhiều hoạt động vui chơi giải trí ngoài trường học, ngoài giờ học như : phim ảnh, trò chơi điện tử nên các em bị chi phối mất GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 3 https://tailieumamnon.net/
nhiều thời gian và sức lực. Ngoài ra còn do cha mẹ lo làm ăn không quan tâm đến việc học của con em mình và còn do nhận thức chưa đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của môn Lịch sử. II.3 Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp mà tôi đưa ra nhằm cải thiện thái độ học tập của học sinh đối với môn Lịch sử, giúp các em yêu thích môn Lịch sử và có hứng thú học tập, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp * Phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin Theo số liệu khoa học mà tổ chức UNESCO đã công bố: Học sinh chỉ nhớ 15% thông tin khi nghe, 25% thông tin khi nhìn nhưng nếu được kết hợp giữa nghe và nhìn thì thông tin thu nhận được đạt tới 65%. Như vậy khi ứng dụng công nghệ thông tin với kênh hình, kênh chữ và các ứng dụng khác sẽ giúp học sinh học tập chú ý hơn, tạo được cảm xúc, tìm tòi, nhận thức và khái quát hóa sự kiện, hiện tượng. Qua thực tế và kinh nghiệm giảng dạy của tôi, có thể khẳng định rằng: việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hỗ trợ dạy học là phương pháp đem lại hiệu quả cao. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hình thành kiến thức cho học sinh trong dạy học lịch sử sẽ làm cho giờ học trở nên sinh động không bị khô khan, tẻ nhạt, lôi cuốn được học sinh tham gia học tập tích cực, chủ động, tạo cho các em động cơ và không khí học tập thoải mái. Đây là nền tảng cho việc tiếp thu kiến thức khoa học lịch sử một cách hiệu quả, qua đó giáo dục và phát triển toàn diện học sinh và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Công nghệ thông tin làm nhiệm vụ hỗ trợ cho các phương pháp dạy học khác, cho nên giáo viên có thể ứng dụng nó để hỗ trợ cho việc tường thuật, hoặc miêu tả các sự kiện, hiện tượng lịch sử...kết hợp với lời trình bày sinh động của giáo viên. Giáo viên cũng có thể chiếu một đoạn phim tài liệu hoặc tư liệu tham khảo để các em đọc và tìm hiểu. Sau đây là một số phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin. - Ứng dụng công nghệ thông tin để tường thuật diễn biến một sự kiện lịch sử. Ví dụ 1. Bài 25 - Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950) ( Lịch sử 9), khi dạy về chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, tôi sử dụng lược đồ chiến dịch Việt Bắc có kí hiệu, hình ảnh với hiệu ứng sinh động thể hiện hướng tiến công của quân bộ, quân thủy và quân dù của Pháp; hướng tiến công của ta và nơi ta bao vây, tiêu diệt địch... Dựa vào lược đồ, chiếu đến đâu, tôi tường thuật diễn biến của chiến dịch đến đó, tôi thấy học sinh rất chú ý theo dõi. Ngày 7/ 10/1947, từ sáng sớm một binh đoàn dù đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc Cạn và chiếm thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn. Cùng ngày hôm đó, một binh đoàn lính bộ từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng, một cánh quân khác đánh xuống Bắc Cạn, tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc Căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 9/ 10/ 1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Đài Thị (Tuyên Quang) bao vây phía tây Căn cứ địa Việt Bắc. GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 4 https://tailieumamnon.net/
Tại Bắc Cạn, ngay từ đầu, quân ta đã chủ động, kịp thời phản công và tiến công địch, tiến hành bao vây, chia cắt, cô lập chúng, tổ chức tập kích vào những nơi địch chiếm đóng, phục kích trên đường từ Bắc cạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn. Vừa chặn đánh địch, ta vừa bí mật, khẩn trương di chuyển các cơ quan Trung ương, Chính phủ, công xưởng, kho tàng đến nơi an toàn. Ở hướng Đông, quân ta phục kích chặn đánh địch trên đường số 4, cản bước tiến của chúng, tiêu biểu là trận đánhBản Sao- đèo Bông Lau ngày 30/10/ 1947. Ở hướng Tây, quân ta phục kích chặn đánh nhiều trận trên sông Lô. Cuối tháng 10 - 1947, 5 tàu chiến địch có máy bay hộ tống từ Tuyên Quang đi Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của ta tại Đoan Hùng. Đầu tháng 11 - 1947, 2 tàu chiến và 1 ca nô địch đã lọt vào trận địa phục kích của ta tại Khe Lau. Dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (Lịch sử 9), khi tường thật diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi thực hiện như sau: Chiếu lược đồ Chiến dịch Điện Biên Phủ Ðèo Bông Lau Ðài Th? 30-10-1947 Khe lau Ch? M?i 24-10-1947 Noi quân Pháp nh?y dù Mui t?n công c?a quân Pháp Quân Pháp rút lui VI?T B?C THU ÐÔNG1947 Ta ph?n công Ta bao vây GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 5 https://tailieumamnon.net/
trên màn hình xem chú thích. Sau đó tôi bắt đầu tường thuật, kết hợp nêu câu hỏi. Giáo viên nêu câu hỏi: Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ bao giờ và chia làm mấy đợt ? Học sinh trả lời: Chiến dịch ĐBP bắt đầu từ 13-3-1954 đến hết 7-3-1954 và được chia làm 3 đợt. Giáo viên chiếu các địa điểm tiến công đợt 1 của ta và nêu câu hỏi: Dựa vào lược đồ em cho biết đợt 1, ta tiến công địch ở đâu ? - Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 1, từ ngày 13 - 3 quân ta bắt đầu tiến công địch ở đồi Độc Lập, Bản Kéo và đồi Him Lam thuộc phân khu Bắc. - Giáo viên nêu câu hỏi: Kết quả ra sao? - Học sinh trả lời, giáo viên thông báo thêm: Trong hai ngày ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập. Ngày 17 - 3, địch ở Bản Kéo phải đầu hàng. Đợt tiến công thứ nhất chỉ diễn ra 5 ngày, ta đã diệt hơn 2000 tên địch, hạ 12 máy bay, bao vây phân khu Trung tâm và uy hiếp trực tiếp sân bay Mường Thanh. Tên Pi-rốt chỉ huy pháo binh địch ở Điên Biên Phủ choáng váng dùng lựu đạn tự tử. Trước khi tường thuật diễn biến đợt 1, tôi yêu cầu các em nhìn lên lược đồ GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 6 https://tailieumamnon.net/
- Giáo viên chiếu tiếp các địa điểm tiến công đợt 2 của ta và nêu câu hỏi: Dựa vào lược đồ em cho biết đợt 2, ta tiến công địch ở đâu ? - Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 2, từ chiều ngày 30 - 3 ta tiến công tiêu diệt các căn cứ phía đông phân khu Trung tâm. Cuộc đánh chiếm đồi A1 và C1 diễn ra suốt 4 ngày đêm, hai bên giành giật nhau từng thước đất. Cuối cùng mỗi bên chiếm giữ một nửa điểm cao. Sự tổn thất của hai bên đều nặng nề. Ở trận địa cánh đồng Mường Thanh, việc tiến quân của ta rất khó khăn vì hỏa lực của địch rất mạnh. Ta chủ trương xây dựng một hệ thống hầm hào, mới tiến công được. Các đơn vị bộ đội sôi nổi thi đua xây dựng trận địa. Hào trục, hào nhánh đan nhau ngang dọc dài tới hàng trăm km, dính liền với hàng vạn chiếc hầm. Với hệ thống chiến hào ngang dọc đã giúp ta đỡ thương vong, cắt lìa phân khu Nam với phân khu trung tâm, cắt đôi sân bay Mường Thanh. Cuối tháng 4, ta đã bao vây ép chặt trận địa địch, mỗi chiều chỉ còn hơn 1km. - Giáo viên chiếu tiếp các địa điểm tiến công đợt 3 của ta và nêu câu hỏi: Dựa vào lược đồ em cho biết đợt 3, ta tiến công địch ở đâu ? - Học sinh trả lời ngắn gọn, sau đó giáo viên tường thuật: Đợt 3, từ 1 - 5, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm còn lại ở Phân khu trung tâm và phân khu Nam. Tối 6 - 5, đường ngầm của ta đã đào vào tận đỉnh đồi A1, ta dùng một tấn thuốc nổ mới phá tan được cao điểm cuối cùng này. Sau đó quân ta tổng công kích trên toàn mặt trận. Chiều 7-5, quân ta đánh vào sở chỉ huy địch ở phân khu Trung tâm. 17 giờ 30 phút cùng ngày, tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ ban tham mưu của địch ra đầu hàng. - Giáo viên chiếu hình ảnh tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ ban tham mưu của địch ra đầu hàng, lá cờ "quyết chiến quyết thắng" tung bay trên nóc hầm Đờ Ca- xtơ-ri Lưu ý: Là một câu chuyện, cho nên khi tường thuật, lời nói của giáo viên không chỉ lưu loát rõ ràng, mà còn phải thể hiện tình cảm của mình theo kịch tính của câu chuyện. Mở đầu bài tường thuật, giáo viên có thể trình bày với nhịp độ vừa phải, nói diễn cảm để thu hút học sinh vào ngay câu chuyện, làm cho các em chú ý và hứng thú theo dõi câu chuyện. Trình bày tình tiết các sự biến thông qua từ ngữ gợi cảm, gợi tả thể hiện âm thanh, màu sắc, cử chỉ, động tác của con người cụ thể, với ngữ điệu nói cao dần, giáo viên tạo cho học sinh xúc động sâu sắc về những gì mà GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 7 https://tailieumamnon.net/
các em hình dung được, tạo cho các em cảm giác dường như đang sống, tham dự, chứng kiến sự kiện đang xảy ra. Đến chỗ tình tiết phát triển cao thì lời nói của giáo viên phải hơi lên giọng, nhịp điệu vừa phải nhưng cần thiết nhấn mạnh những từ ngữ có hình ảnh để khắc sâu như: ... làm cho học sinh hồi hộp theo dõi câu chuyện. Khi tình tiết giảm đi thì nhịp điệu nói của giáo viên phải hơi nhanh, hơi hạ giọng. Kết thúc bài giảng giáo viên phải nói với nhịp độ vừa phải, hạ giọng và nhấn mạnh khi trình bày về kết quả tốt đẹp của trận chiến đấu, gây ấn tượng sâu sắc cho học sinh. Như vậy các em sẽ được theo dõi diễn biến của sự kiện lịch sử trên màn hình, giống như đang được xem một bộ phim với hình ảnh sinh động nên các em sẽ dễ nhớ, dễ hiểu và hứng thú học tập. - Ứng dụng công nghệ thông tin để miêu tả một sự vật lịch sử Ví dụ, khi dạy bài 26 - Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1950 - 1953) (Lịch sử lớp 9), tôi miêu tả Đông Khê như sau: "Đứng trên núi cao nhìn xuống đồn Đông Khê như một tuần dương hạm khổng lồ giữa biển rừng xanh biên giới. Đông Khê nằm giữa đường số 4 cách Cao Bằng 45 km, cách Thất Khê 24 km, xung quanh có 7 vị trí kiên cố đóng trên núi cao như một bức tường vững chắc bao bọc. Đồn Đông Khê có hàng chục lô cốt thấp sát mặt đất, nắp dày trên 1m, có hầm ngầm, tường cao, dây thép gai xung quanh. Khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc ( Lịch sử 9), tôi chiếu hình ảnh cách đồng Điện Biên Phủ, sau đó miêu tả khái quát có phân tích về vị trí tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ như sau: Điện Biên Phủ là một cánh đồng rộng lớn, nằm dọc theo sông Nậm Rốm, ở giữa vùng rừng núi Tây Bắc, dài chừng 18 km, rộng từ 6 - 8 km. Phía Bắc Điện Biên Phủ giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào. Với vị trí như vậy, Pháp, Mĩ coi Điện biên Phủ là một địa bàn hết sức quan trọng. Chúng xây dựng ở đây 49 cứ điểm chia thành ba phân khu, phân khu Trung tâm, phân khu Bắc. Phân khu trung tâm Mường Thanh tập trung hai phần ba lực lượng địch, có cơ quan chỉ huy, trận địa pháo, sân bay, kho hậu cần và hệ thống cứ điểm trên cao. Phân khu Bắc gồm có cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo cùng với cụm cứ điểm Him Lam. Phân khu Nam là một cụm cứ điểm có trận địa pháo và sân bay Hồng Cúm. Mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hỏa lực nhiều tầng có chiến hào ngang dọc, có hàng rào dây thép gai dày từ 20m đến 50m, có bãi mìn dày đặc, có lưới dây điện sát mặt đất. Một số cứ điểm còn có hầm ngầm cố thủ. Lực lượng địch ở đây lúc cao nhất là 16200 quân. Với lực lượng và cách bố trí công sự như vậy nên Pháp và Mĩ coi Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm". Khi miêu tả giáo viên phải diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, thể hiện thái độ, tình cảm của mình đối với sự vật miêu tả. Khi miêu tả những sự vật phức tạp, ngữ điệu của giáo viên phải chậm hơn lúc tường thuật, có những chỗ ngắt giọng ngắn, thỉnh thoảng giáo viên đặt câu hỏi: "tại sao ? ..." để học sinh suy nghĩ (song không nhất thiết yêu cầu các em phải trả lời). Ví dụ, khi trình bày xong vấn đề "Pháp - Mĩ coi Điện Biên Phủ là một pháo đài bất khả xâm phạm" giáo viên nên ngắt giọng, nêu câu hỏi "Chúng đã bố trí công sự và lực lượng như thế nào mà dám nói là pháo đài bất khả xâm phạm ?". Học sinh suy nghĩ vấn đề đặt ra song không trả lời câu hỏi, GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 8 https://tailieumamnon.net/
mà giáo viên tiếp tục trình bày về cách bố trí các công sự, lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ để cuối cùng rút ra kết luận và giải đáp câu hỏi đã đặt ra. Khi kết luận, giáo viên nên nói chậm, nhấn mạnh, hơi xuống giọng những từ cuối để khắc sâu trí nhớ của học sinh. Cách giảng như vậy không đơn điệu, buồn tẻ mà khơi gợi sự tò mò, hiểu biết của học sinh. Các em theo dõi một cách hứng thú, phát huy tính tích cực trong tư duy và tiếp thu sự kiện một cách dễ dàng. - Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu tài liệu tham khảo Trong dạy học, ngoài sách giáo khoa và sách giáo viên còn phải sử dụng các tài liệu tham khảo. Tài liệu tham khảo có tác dụng bổ sung cho bài học, làm phong phú thêm vốn kiến thức cho học sinh. Có nhiều cách sử dụng tài liệu tham khảo, trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đề cập đến việc ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu tài liệu tham khảo. Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu một văn bản. Ví dụ 1. Khi dạy bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Lịch sử 9), mục I - Lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố, tôi thực hiện như sau: - Chiếu văn bản Hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh: Hỡi quốc dân đồng bào Hỡi các đoàn thể cứu quốc Phát xít Nhật đã gục đầu hàng phục Anh - Mĩ - Nga - Tàu. Quân Đồng minh sắp tràn vào Đông Dương. Giờ Tổng khởi nghĩa đã đến ! Dân tộc ta đã đến lúc vùng dậy cướp lại chính quyền độc lập của mình ! Trước cơ hội có một không hai này, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân giải phóng Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đổi lấy tự do hạnh phúc cho nhân dân ! Ngày vinh quang ấy đương đòi hỏi những hi sinh quyết liệt, những dũng cảm phi thường của con em trong nước. Thắng lợi nhất định về ta ! Dấy lên ! TỔNG BỘ VIỆT MINH - Sau đó tôi nêu câu hỏi: Em hiểu Hiệu triệu là gì ? - Học sinh trả lời, giáo viên kết luận. Tiếp theo, tôi đề nghị: Em nào có khả năng thể hiện tốt lời Hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh, hãy đọc cho cả lớp cùng nghe ! Phần lớn học sinh đã tập đọc diễn cảm và xung phong đọc. Tôi gọi khoảng hai em đọc, so sánh, nhận xét khả năng thể hiện của từng em và khích lệ các em. Tiếp đến, tôi nêu câu hỏi: Hãy nêu nội dung của lời Hiệu triệu ? (kêu gọi toàn dân đứng lên khởi nghĩa, khẳng định khởi nghĩa sẽ thắng lợi) Với phương pháp trên, tôi nhận thấy hầu hết học sinh đều nhìn lên màn hình, cố gắng đọc diễn cảm, chứng tỏ các em đang bị lôi cuốn vào bài học. Ví dụ: Khi dạy bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Lịch sử 9), dạy đến sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2 - 9 - 1945), tôi cho học sinh xem một đoạn Ngày 14 tháng 8 năm 1945 GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 9 https://tailieumamnon.net/
video về sự kiện này và yêu cầu các em chú ý nghe để nêu nội dung của Tuyên ngôn. Sau khi đoạn phim kết thúc, tôi nêu câu hỏi: Hãy nêu nội dung của Tuyên ngôn ? Học sinh trả lời, giáo viên bổ sung như sau: - Tuyên ngôn khẳng định quyền bình đẳng tự do và sống sung sướng của mọi dân tộc. - Lên án thực dân Pháp chà đạp lên quyền sống của nhân dân ta và hai lần bán nước ta cho Nhật. - Nêu bật tinh thần dũng cảm chiến đấu của nhân dân ta chống Nhật - Pháp và vì vậy khi Pháp bỏ chạy, nhân dân ta dân ta đã giành được độc lập từ tay Nhật. - Khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập với chủ quyền dân tộc vừa giành lại được. Như vậy các em vừa được nhìn thấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài trong giờ phút thiêng liêng, vừa được nghe được giọng của Người đọc Tuyên ngôn Độc lập. Hình ảnh ấy, giọng nói ấy tác động mạnh mẽ đến tình cảm của các em và lưu giữ lại trong trí nhớ của các em lâu hơn. - Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu hình ảnh lịch sử Ví dụ: Mục V, bài 28 - Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 - 1965). Khi trình bày về cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị của quân và dân ta trong chiến đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Phong trào đã thu hút đông đảo các tầng lớp tham gia. tôi chiếu hình ảnh sau đây và hỏi: Các em cho biết, đây là ai và đang làm gì ? (Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm) ? Bức ảnh nói lên điều gì (lòng dũng cảm, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống chính quyền Diệm của nhân dân ta...) Như vậy, bức ảnh đã khiến các em rất tò mò, xúc động và mong muốn khám phá nội dung của nó. SKKN: Một số kinh nghiệm sử dụng PP gây hứng thú trong dạy học môn Lịch sử ở trường THCS Trần Phú * Phương pháp thảo luận nhóm Thảo luận nhóm là hoạt động diễn ra thường xuyên trong các giờ học, nhưng giờ nào giáo viên cũng có hình thức tổ chức thảo luận như nhau sẽ dẫn đến sự nhàm chán, không kích thích được hứng thú làm việc của học sinh. Vì vậy, tôi đã thay đổi hình thức thảo luận như sau: Đối với những câu hỏi dễ, bắt buộc các nhóm phải trả lời theo chỉ định của giáo viên, hoặc giáo viên gọi trả lời trên tinh thần xung phong, nhưng không ghi điểm. Đối với những câu hỏi khó, tôi tổ chức thi giữa các nhóm và tiến hành như sau: Trước hết, tôi nêu câu hỏi, sau đó đưa ra thể lệ cuộc thi: "Để xin trả lời, một đại diện nhóm phải giơ tay, nhóm nào có tín hiệu sớm nhất sẽ giành được quyền trả lời. Nếu người đại diện trả lời đúng câu hỏi, cả nhóm sẽ được ghi điểm vào kiểm tra miệng, nhưng số điểm không đều nhau mà giảm hoặc tăng Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 10 https://tailieumamnon.net/
dần theo mức độ đóng góp của từng thành viên, trong đó người làm nhiệm vụ trả lời sẽ được điểm cao nhất. Nếu nhóm trước trả lời không đúng, cơ hội sẽ giành cho nhóm tiếp theo. Tuy vậy, dù nhóm này có trả lời đúng vẫn bị trừ đều mỗi thành viên một điểm, vì chưa có câu trả lời nhanh nhất" Ở lớp 9A, tôi đã áp dụng một số câu hỏi để thảo luận thi giữa các nhóm, ví dụ như: ? Mục đích các chính sách chính trị, văn hoá giáo dục của thực dân Pháp ở Việt Nam (phục vụ công cuộc khai thác, bóc lột và củng cố bộ máy cai trị ở thuộc địa), (Tiết 16 - Bài 14 - Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất) ? Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc có gì mới và khác lớp người đi trước (các nhà yêu nước như: Phan Bội Châu tìm sang các nước phương Đông như Nhật Bản, Trung Quốc gặp gỡ các chính khách của nước đó, xin họ giúp Việt Nam đánh Pháp và chọn phương pháp đấu tranh bạo động. Phan Chu Trinh chủ trương ôn hòa. Nguyễn Ái Quốc chủ trương sang phương Tây, nơi có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học kĩ thuật phát triển. Trong quá trình đó, Người bắt gặp chân lí cứu nước của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và xác định con đường cứu nước theo Cách mạng tháng Mười Nga, con đường duy nhất đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại), (Tiết 19 - Bài 16 - Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919 - 1925). ? Thành quả của Cách mạng tháng Tám 1945 là gì (giành được chính quyền), (Tiết 28 - Bài 23 - Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). ? Thành quả của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì (giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước), (Tiết 46 - Bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975)) ... Lưu ý: Đối với những câu hỏi khó cần được khuyến khích, giáo viên không nên cho điểm dưới 5. Nếu những em điểm 5; 6; 7 muốn chờ cơ hội khác lấy điểm cao hơn, thì giáo viên cũng không ghi điểm vào sổ. Trong một bài, giáo viên chỉ nên tổ chức thi một câu để tránh mất nhiều thời gian. * Sử dụng yếu tố văn thơ trong dạy học lịch sử Rất nhiều môn học có thể hỗ trợ cho việc dạy và học lịch sử. Trong đề tài này, tôi chỉ nêu lên một số kinh nghiệm về việc sử dụng yếu tố văn thơ và âm nhạc để tạo hứng thú cho học sinh trong môn học Lịch sử. Trong thực tế, khi tôi sử dụng thơ để hỗ trợ cho bài giảng, tôi thấy các em chăm chú lắng nghe, có khi tôi đọc đã xong các em còn yêu cầu đọc tiếp. Điều đó chứng tỏ sử dụng thơ vào giờ học lịch sử đã tạo được hứng thú cho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (Lịch sử 9), sau khi dạy xong, tôi đọc bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, để củng cố nhận thức của học với những câu thơ như sau: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng, đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm Mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non Gan không núng, chí không mòn GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 11 https://tailieumamnon.net/
Những đồng chí thân chôn làm giá súng Đầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai, ào ào vũ bão Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt còn ôm Những bàn tay xẻ núi, lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta ra chiến trường tiếp viện Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến Mấy tầng mây, gió lớn, mưa to Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh... (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu) Tôi vừa đọc, vừa dừng lại nêu câu hỏi hoặc phân tích một số ý quan trọng. Ví dụ, khi đọc xong câu: "Những đồng chí thân chôn làm giá súng", tôi nêu câu hỏi: " Em có biết, trong chiến dịch Điện Biên Phủ ai là người đã lấy thân mình làm giá súng ?". Khi đọc xong câu "Đầu bịt lỗ châu mai", tôi lại hỏi:" Ai là người đã xông lên bịt lỗ châu mai để chặn đứng hỏa lực địch?" Khi đọc xong câu "Những đồng chí chèn lưng cứu pháo. Nát thân, nhắm mắt còn ôm", tôi lại hỏi:" Ai là người chèn lưng cứu pháo ?" ... Các em sẽ khắc sâu được hình ảnh hi sinh dũng cảm của các chiến sĩ và xúc động, tự hào về truyền thống dân tộc. Dạy bài 29 - Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ cứu nước (1965 - 1968) (Lịch sử 9), khi nói về đường Trường Sơn - tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, tôi đọc cho học sinh nghe một đoạn thơ sau: Trường Sơn xẻ dọc, rọc ngang Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng Trường Sơn vượt núi, băng sông Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa Trường Sơn, đông nắng, tây mưa Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình (Nước non ngàn dặm - Tố Hữu) Sau khi đọc xong, tôi nêu câu hỏi: "Qua đoạn thơ trên, em có suy nghĩ gì về tuyến đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta ?". Học sinh có thể không hiểu đầy đủ nội dung của đoạn thơ, song giáo viên cần phải bổ sung cho các em. Tuy nhiên, với giọng đọc truyền cảm, có lúc hùng hồn, có lúc thiết tha của giáo viên sẽ khiến các em xúc động trước một con đường huyền thoại. Như vậy, giáo viên đã tạo được hứng thú cho các em trong giờ học lịch sử. Sự tiếp nhận kiến thức như vậy sẽ làm cho các em nhớ lâu hơn, ấn tượng hơn. Để làm được điều này, giáo viên phải biết sưu tầm các bài thơ hay, các câu thơ hay có liên quan đến các sự kiện lịch sử và biết sử dụng một cách hợp lí, có hiệu quả. Khi sử dụng thơ vào dạy học lịch sử cần chú ý, phải chọn lọc những đoạn, những câu phù hợp với bài học, phù hợp với khả năng hiểu biết của các em, không nên đọc hết một bài thơ quá dài vừa làm mất nhiều thời gian của giờ học, vừa làm cho các em cảm thấy nhàm chán. Giáo viên không nên tham lam, sử dụng GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 12 https://tailieumamnon.net/
quá Giáo viên cần chú ý đọc diễn cảm, thể hiện ngữ điệu phù hợp với từng câu thơ. nhiều thơ vào dạy học lịch sử và cũng tránh phân tích quá sâu làm sai mục đích của việc sử dụng kiến thức liên môn. Giáo viên phải rèn luyện cách đọc thơ, nếu đọc không hay cũng không thể tạo hứng thú cho học sinh. * Sử dụng yếu tố âm nhạc trong dạy học lịch sử Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết sử dụng thơ ca để truyền đạt thông tin, vì thông tin qua hình thức đó làm cho người nghe, người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Trong thực tế, âm nhạc đã từng làm nên những điều kì diệu, âm nhạc có thể làm thay đổi cảm xúc của con người. Con người thường dùng âm nhạc để ca ngợi cái đẹp và hướng tới cái đẹp, vì vậy đã có rất nhiều ca khúc, ca ngợi các anh hùng dân tộc, ca ngợi những chiến công, ca ngợi tinh thần vượt qua khó khăn gian khổ, sự hi sinh anh dũng của quân và dân ta trong lịch sử chống ngoại xâm. Một bài hát với lời ca rộn ràng, hùng tráng phù hợp với nội dung bài học, được dạo lên trước một giờ học mới sẽ làm vơi đi sự mệt mỏi, tạo sự sảng khoái để bước vào một giờ học hiệu quả hơn, đồng thời còn có tác dụng giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc. Vì vậy, tôi đã sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử. Ví dụ, khi dạy bài khi dạy bài 27 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc ( Lịch sử 9), sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng Điện Biên" (Đỗ Nhuận) rồi giới thiệu bài mới. Bài hát mang âm hưởng làn điệu dân ca Tây Bắc dặt dìu và làn điệu chèo mượt mà của đồng bằng Bắc Bộ, với tiếng kèn thắng trận hùng tráng. Nhịp điệu âm nhạc tropng bài hát là nhịp chân điệu múa xòe hoa của các cô gái Thái, xen lẫn nhịp bước hành quân của các chiến sĩ Điện Biên. Bài hát sẽ tạo một tâm trạng sôi nổi háo hức, để các em đi vào bài học một cách hứng thú hơn. Khi dạy bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975) ( Lịch sử lớp 9) sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng miền Nam" (Lưu Hữu Phước) rồi giới thiệu bài mới. Nội dung bài hát là lời thôi thúc, cổ vũ, hiệu triệu toàn quân, toàn dân ta tiến lên tiêu diệt kẻ thù. Như vậy, ngay từ đầu đã tạo được không khí phấn khởi cho các em. Khi dạy xong bài 30 - Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975) (Lịch sử lớp 9), tôi cho các em nghe bài hát "Như có Bác trong ngày đại thắng" (Phạm Tuyên) hoặc bắt nhịp cho cả lớp cùng hát. Nội dung bài hát thể hiện niềm tự hào, niềm vui chiến thắng nên các em sẽ cảm thấy vui và phấn chấn hơn sau một giờ học. Điều đó sẽ giúp các em hứng thú trong học tập, thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất nước. Lưu ý: Khi sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử phải lựa chọn những bài hát phù hợp với nội dung bài học, phải theo quan điểm của Đảng, phù hợp với khả năng cảm thụ âm nhạc của lứa tuổi học sinh, không lạm dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử. Một số điều cần lưu ý khi dạy học nói chung và dạy lịch sử nói riêng, đó là: Giáo viên phải diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, cần tránh lối nói mập mờ, khó hiểu, tránh giải thích vấn đề một cách trừu tượng, rắc rối. Sức mạnh của lời nói là ở chỗ ngắn gọn, ít từ mà súc tích. Tuy nhiên, ngắn gọn không có nghĩa là không được nói dài, mà là không nói thừa. Nói như vậy bài trình bày của giáo viên vừa chặt chẽ, GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 13 https://tailieumamnon.net/
dễ hiểu, vừa tiết kiệm được thời gian. Để trình bày ngắn gọn, điều quan trọng đầu tiên là giáo viên không nên bắt đầu bằng những lời lẽ huyên thuyên, lan man, lạc đề, mà phải bám sát vào yêu cầu của bài giảng. Đặc biệt giáo viên nên tránh nói dài, nói dai, lặp đi lặp lại những điều đã trình bày. Trình bày ngắn gọn nhưng câu nói phải đủ ý và dễ hiểu, nếu cô đọng quá, vắn tắt quá sẽ làm học sinh khó hiểu. Diễn đạt tốt là phải thu hút người nghe vào bài giảng của mình, khắc sâu vào trí nhớ của họ những vấn đề cần thiết. Cho nên điều quan trọng trong diễn đạt là lời nói phải sinh động, có hình ảnh. Muốn đạt được điều này, giáo viên phải biết sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ mà giáo viên sử dụng phải trong sáng, tránh rườm rà, không nên sử dụng các từ theo sở thích như: "tốt", "tuyệt",...mà không phù hợp với bài giảng, các thán từ không cần thiết: "ờ, ờ!"... và quá nhiều liên từ trong bài giảng. Tất cả những từ thừa trong ngôn ngữ sẽ làm cho các em khó tri giác lời giảng, đôi khi khiến các em khó chịu và trở thành trò đùa của các em. Cùng với việc sử dụng tốt ngôn ngữ diễn đạt giáo viên phải chú ý đến âm lượng, khi giảng bài, giáo viên không nên lúng búng trong miệng, không nuốt từ, giọng nói cần vừa đủ để tất cả học sinh trong lớp đều nghe được, không nên nói to quá, cũng không nên nói nhỏ quá. Nói to quá (nhất là giọng the thé) làm cho học sinh bị kích thích, khó chịu . Nếu giáo viên nói nhỏ quá thì học sinh cuối lớp không nghe rõ sinh ra chán nản và làm việc riêng. Để cuốn hút học sinh vào bài giảng, giáo viên còn phải chú ý đến ngữ điệu. Ngữ điệu có tác dụng rất lớn tới chất lượng bài giảng. Lời nói đều đều khi giảng một bài lịch sử sẽ làm cho học sinh dễ buồn ngủ. Đây là một nguyên nhân làm cho bài học trở nên nhạt nhẽo, khô khan, không hấp dẫn. Lời nói của giáo viên trong mỗi bài lịch sử cần thể hiện tình cảm của mình thông qua ngữ điệu diễn đạt thích hợp với nội dung bài . Ngữ điệu phong phú của giáo viên để truyền đạt hết các sắc thái tình cảm thông qua từng nội dung kiến thức có sức hấp dẫn lôi cuốn, khiến cho học sinh say sưa quên thời gian, hết tiết học các em còn cảm thấy luyến tiếc, chứng tỏ các em đang hứng thú học tập. Nhịp độ nói của giáo viên cũng có ý nghĩa quan trọng trong bài giảng. Nhịp độ nói của thầy phải ăn khớp với nhịp độ tư duy của học sinh. Thầy phải thường xuyên theo dõi biểu hiện trên nét mặt của học sinh để biết được các em có theo kịp bài giảng hay không. Khi trình bày những phần khó, giáo viên cần nói với nhịp độ chậm. Đặc biệt khi trình bày một kết luận, định nghĩa, nguyên lí...nhất thiết phải nói chậm. Không phải chỉ nói chậm là quan trọng mà cả việc sắp xếp trọng âm, lên giọng, xuống giọng, dừng lại để nhấn mạnh ý nghĩa của toàn bộ sự khái quát cũng như từng phần riêng rẽ của nó. c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Để thực hiện tốt những phương pháp trên, yêu cầu phải có các điều kiện sau đây: Phải có máy vi tính nối mạng Internet và màn hình trình chiếu Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, biết ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, có kĩ năng diễn đạt lưu loát, ngữ điệu phong phú. d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 14 https://tailieumamnon.net/
cho nhau, có mối quan hệ với nhau. Cụ thể trong đề tài này, công nghệ thông tin đã hỗ trợ hình ảnh trực quan về sự vật, sự kiện lịch sử cho miêu tả, tường thuật nên học sinh dễ hình dung, nhận biết. Ngược lại việc miêu tả, tường thuật của giáo viên sẽ làm rõ bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử qua hình ảnh trực quan mà công nghệ thông tin đem lại. Công nghệ thông tin cũng hỗ trợ cho phương pháp liên môn như: qua mạng Internet có thể tìm kiếm các hình ảnh, tư liệu về thành tựu của các ngành khoa học như khoa học vũ trụ, y học, nông nghiệp, giao thông vận tải và thông tin liên lạc...mà môn Lịch sử đề cập đến. e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Qua việc sử dụng các phương pháp trên ở lớp 9A năm học 2010 - 2011, tôi nhận thấy rất rõ, trong giờ lịch sử những đoạn giáo viên tường thuật diễn biến một chiến dịch hay một trận đánh bằng lược đồ có ứng dụng công nghệ thông tin với kí hiệu, hình ảnh sinh động thì học sinh theo dõi rất chăm chú, việc tạo biểu tượng lịch sử và nắm nắm kiến thức lịch sử dễ dàng hơn. Khi tôi sử dụng thơ vào bài giảng các em đã rất lắng nghe và khi một đoạn nhạc, một ca khúc được cất lên thì tôi thấy các em thật phấn khích. Điều đó, chắc chắn ít nhiều đã tạo được hứng thú và sự thoải mái cho các em trong giờ học lịch sử. Khi các em đã có sự chú ý, hứng thú học tập thì kết quả học tập sẽ được cải thiện. Hơn nữa, sự hiểu biết của các em về lịch sử, về các lĩnh vực khác sẽ đầy đủ hơn và sự phát triển nhân cách của các em vì thế cũng đầy đủ hơn. II.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Qua khảo nghiệm, tôi thấy có thêm nhiều học sinh lớp 9A yêu thích môn Lịch sử, có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới. Từ sự yêu thích môn Lịch sử, các em biết trân trọng những thành quả mà ông cha đã đạt được và tự hào về truyền thống của dân tộc ta. Từ đó các em ý thức được trách nhiệm của mình đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Kết quả học tập cũng được nâng cao. So sánh chất lượng môn Lịch sử của lớp 9A và 9C năm học 2010 - 2011, có kết quả như sau: LớpSĩ sốLoại giỏi SL % SL % 9A 41 21 51,22 19 46,34 1 9C 38 7 18,42 16 42,11 14 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ III.1 Kết luận Để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, nhằm giúp các em có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới, đòi hỏi giáo viên phải nhiệt tình, sáng tạo, có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng đối tượng học sinh. Việc sử dụng các phương pháp dạy học trên, có tác động rất lớn đến lứa tuổi học sinh phổ thông, các em thấy yêu thích môn Lịch sử hơn, nên chất lượng bộ môn cũng được cải thiện. Tuy nhiên, mỗi phương pháp có những mặt ưu điểm và Trong một bài giảng các phương pháp, phương tiện dạy học thường hỗ trợ Loại khá Loại TB SL Loại yếu SL 0 Loại kém SL 0 0 % 2,44 36,84 0 % 0 0 % 0 0 GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 15 https://tailieumamnon.net/
hạn chế nhất định. Điều quan trọng là người giáo viên phải biết sử dụng các phương pháp dạy học một cách hợp lí, chủ động, sáng tạo thì mới đem lại hiệu quả cao. III.2 Kiến nghị Để khẳng định môn Lịch sử rất quan trọng, giúp hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội thì cùng với ý thức trách nhiệm của giáo viên dạy lịch sử, các cơ quan giáo dục cũng cần có những hình thức như thỉnh thoảng đưa môn Lịch sử vào thi tuyển sinh lớp 10, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử để các em có hiểu biết nhiều hơn về lịch sử và yêu thích môn Lịch sử. IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO - Sách Phương pháp học tập và nghiên cứu lịch sử. Phan Ngọc Liên - Nguyễn Thị Côi - Đặng Văn Hồ. NXB Giáo dục - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III. Đỗ Thanh Bình - Đào Thị Hồng - Phan Ngọc Liên - Nguyễn Xuân Trường. NXB Giáo dục GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 16 https://tailieumamnon.net/
V. MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦUTrang I.1. Lí do chọn đề tài..................................................................................................1 I.2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài............................................................................2 I.3 Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................2 I.4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu...............................................................................2 I.5 Phương pháp nghiên cứu......................................................................................2 II. PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................3 II.1 Cơ sở lí luận........................................................................................................3 II.2 Thực trạng...........................................................................................................4 II.3 Giải pháp, biện pháp...........................................................................................5 II.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu..15 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.................................................................16 III.1 Kết luận III.2 Kiến nghị IV. TƯ LIỆU THAM KHẢO...............................................................................17 V. MỤC LỤC.........................................................................................................18 GV: Đào Thị Xuân –Trường THCS Trần Phú Trang 17 https://tailieumamnon.net/