0 likes | 12 Views
Chu0103m su00f3c giu00e1o du1ee5c tru1ebb em ngay tu1eeb nhu1eefng nu0103m thu00e1ng u0111u1ea7u u0111u1eddi lu00e0 mu1ed9t viu1ec7c lu00e0m hu1ebft su1ee9c cu1ea7n thiu1ebft vu00e0 cu00f3 u00fd nghu0129a vu00f4 cu00f9ng quan tru1ecdng trong su1ef1 nghiu1ec7p giu00e1o du1ee5c cu1ee7a u0111u1ea5t nu01b0u1edbc. Tru1ebb em sinh ra cu00f3 quyu1ec1n u0111u01b0u1ee3c nuu00f4i du01b0u1ee1ng, chu0103m su00f3c, bu1ea3o vu1ec7, u0111u01b0u1ee3c tu1ed3n tu1ea1i, u0111u01b0u1ee3c chu1ea5p nhu1eadn trong gia u0111u00ecnh vu00e0 cu1ed9ng u0111u1ed3ng. Giu00e1o du1ee5c mu1ea7m non lu00e0 ngu00e0nh hu1ecdc u0111u1ea7u tiu00ean chiu1ebfm vu1ecb tru00ed vai tru00f2 quan tru1ecdng trong hu1ec7 thu1ed1ng giu00e1o du1ee5c quu1ed1c du00e2n. Mu1ee5c tiu00eau cu1ee7a giu00e1o du1ee5c mu1ea7m non lu00e0 phu00e1t triu1ec3n tou00e0n diu1ec7n cho tru1ebb vu00e0 Giu00e1o du1ee5c u201cKu1ef9 nu0103ng su1ed1ngu201d cho tru1ebb lu00e0 giu00e1o du1ee5c cu00e1ch su1ed1ng tu00edch cu1ef1c trong xu00e3 hu1ed9i hiu1ec7n u0111u1ea1i.
E N D
BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp mầm non” tại Trường Mầm non Phường 3, TP Vũng Tàu Người viết: Nguyễn ThịHoài Thương 1. Cơ sởđề xuất giải pháp 1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những năm tháng đầu đời là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của đất nước. Trẻ em sinh ra có quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Giáo dục mầm non là ngành học đầu tiên chiếm vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mục tiêu của giáo dục mầm non là phát triển toàn diện cho trẻ và Giáo dục “Kỹnăng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹnăng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khảnăng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống. Kỹnăng sống chính là năng lực tâm lý xã hội đểđáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Một trong những nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khảnăng giao tiếp, khảnăng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đềcơ bản một cách tự lập là rất quan trong đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu vào lồng ghép giáo dục kỹnăng sống cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi trong trường mầm non là vô cùng cần thiết. Giáo dục kỹnăng sống cho lứa tuổi mầm non là nhiệm vụ rất quan trọng của giáo viên và các bậc phụ huynh. Vì ngoài gia đình ra, khi bắt đầu tiếp xúc với môi trường mới như: nhà trường, xã hội sẽ kéo theo những mối quan hệ khác nhau từ thầy cô, bạn bè... Lúc này trẻ sẽ bắt đầu học những kỹnăng thích nghi, giao tiếp, ứng xử… Kỹnăng thích nghi là một kỹnăng sống quan trọng vì đó là khảnăng để trẻ có thể hòa nhập hoặc phản ứng lại với môi trường bên ngoài. Nhất là với trẻ nhà trẻ, từởmôi trường gia đình, mình là trung tâm, có ông bà, cha mẹ... phải đến trường mới, lớp nhà trẻ, có cô, các bạn... Đứa trẻ phải có kĩ năng thích nghi để hòa nhập với môi trường mới Nếu đứa trẻ nếu có kỹnăng thích nghi sớm, trẻ 1 https://giaoanthpt.com/
sẽ giao tiếp tốt có thể dễ dàng hòa nhập với những người xung quanh, đi vào nề nếp để tham gia mọi hoạt động trong ngày ở lớp học, trẻthích đi học, không sợ người lạ, không quấy khóc... Nhưng nếu trẻ thiếu kỹnăng thích nghi thì trong việc tham gia vào các hoạt động cùng với trẻ, các bạn, thì cũng khó mà đạt được những kết quả tốt. Vì vậy, việc hình thành và phát triển kỹnăng thích nghi cho trẻởđộ tuổi 25-36 tháng là rất cần thiết. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp mầm non” 1.2. Tổng quan các vấn đềliên quan đến giải pháp Việc giúp trẻ thích nghi với môi trường lớp mầm non ở mỗi trường đều có. Trong những năm qua đã có đề tài sáng kiến nghiên cứu về“Một số kinh nghiệm giúp trẻ thích nghi với môi trường ởtrường mầm non (2012-2013) của tác giả Nguyễn Thị Chung, đề tài sáng kiến nghiên cứu về“Một số kinh nghiệm giúp trẻ thích nghi với môi trường ởtrường mầm non (2012-2013) của tác giả Nguyễn Thị Thúy. Nhìn chung sáng kiến đã đề cập tới nhiều góc độ khác nhau, có biện pháp rất hay, tuy nhiên chưa có sáng kiến nào đi sâu tới việc giúp trẻ 25- 36 tháng nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp mầm non. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp mầm non” là rất cần thiết để giúp các cháu dễ dàng hòa nhập, thích nghi với môi trường lớp học, các cháu đi vào nề nếp nhanh hơn, hứng thú tham gia mọi hoạt động trong ngày ở lớp học, trẻ thích được đi học...nhằm góp phần cao chất lượng chăm sóc giáo dục cho trẻ 25-36 tháng trong nhà trường. 1.3. Mục tiêu của giải pháp Giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, phát huy tính tích cực trong các hoạt động, qua đó đề xuất “Một số giải pháp giúp trẻ 25-36 tháng nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp mầm non”. 1.4. Căn cứđề xuất giải pháp 1.4.1. Cơ sở pháp lý Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹnăng sống là những kỹnăng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thểcó đểtương tác với những người khác một cách hiệu quả và giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách thức của cuộc sống hàng ngày. 2 https://giaoanthpt.com/
Cha mẹ nào cũng mong con mình khỏe mạnh, thông minh và cố gắng tạo điều kiện tốt nhất để trẻ phát triển. Tuy nhiên bên cạnh việc chăm sóc để trẻ phát triển thể chất, giáo dục trẻ học hành giỏi giang, nhiệm vụ giúp trẻđịnh hướng, xây dựng và phát triển các kỹnăng sống cơ bản là không thể thiếu được. Chúng ta đã được chứng kiến rất nhiều học sinh thông minh, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi nhưng vì thiếu và yếu các kỹnăng sống, kỹnăng làm việc nên gặp rất nhiều khó khăn trong học tập và quá trình xin việc, đi làm. Chính vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là hết sức cần thiết. 1.4.2. Cơ sở thực tiễn Trong 3 năm lại đây, tôi được phân công trực tiếp đứng lớp nhà trẻ, cứ vào đầu năm nhận các cháu 25-36 tháng vào lớp là nghe tiếng khóc của các cháu. Có một số cháu dễ thích nghi, ít khóc, một số cháu thì khóc cả ngày, có vài cháu khóc cả tháng trời làm các cô và phụ huynh rất lo lắng. Phụ huynh thì so sánh lớp này với lớp kia, sao bé này khóc, bé kia không khóc, quan tâm tới việc con mình có chơi với bạn không, có chịu tham gia vào hoạt động trong lớp không... Mỗi năm cáccháu khác nhau và cách làm quen cũng khác nhau, nên vào đầu năm khi nhận cháu mới luôn là niền băn khoăn đối với tôi, làm sao để các cháu không khóc, các cháu ngoan, chịu tham gia các hoạt động, cháu phát triển tốt. Chính vì vậy việc hình thành và nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ 25-36 tháng là điều cần thiết. Qua một thời gian nghiên cứu và thực tế giảng dạy ởtrường tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trong việc nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ 25-36 tháng. Tôi trình bày ra đây để chị em cùng tham khảo và đóng góp ý kiến 1.5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụđặt ra trong việc nghiên cứu đềtài, tôi đã sử dụng đan xen các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ, giáo dục kỹnăng sống cho trẻ - Phương pháp đàm thoại: Khai thác những hiểu biết, những kinh nghiệm của của giáo viên và phụ huynh. - Phương pháp thực hành, trải nghiệm: Tổ chức cho trẻ những hoạt động vui chơi, học tập trong và ngoài lớp - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo các tài liệu có liên quan đến công tác giáo dục kỹnăng sống cho trẻ, tham gia tập huấn các lớp bồi 3 https://giaoanthpt.com/
dưỡng hè, tham gia dựchuyên đề, hội giảng các cấp, dự giờthăm lớp, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. 1.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng: Học sinh, giáo viên lớp 24-36 tháng 1 Trường Mầm non phường 3. 2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp 2.1. Quá trình hình thành giải pháp a) Thuận lợi: Trường được sự quan tâm chỉđạo của các ngành các cấp, ban giám hiệu luôn quan tâm đồng hành, tích cực về việc rèn kỹnăng sống cho trẻ Trường Mầm non phường 3 đóng trên địa bàn trung tâm của thành phố, mặt bằng dân trí của phụ huynh cao, điều này là một thuận lợi khi trẻđược tham gia nhiều các hoạt động thực tế, được trải nghiệm nhiều điều. Các bậc phụ huynh nhiệt tình, luôn quan tâm hỗ trợcơ sở vật chất lẫn tinh thần trong việc rèn kỹnăng sống cho trẻ Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi. Bản thân có trình độ trên chuẩn, yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình trong công việc. Trẻđến lớp tương đối ngoan, nhanh nhẹn, khỏe mạnh. b) Khó khăn và hạn chế: Phòng học nhỏ, chưa đáp ứng được số trẻ ra lớp không đảm bảo đủ diện tích trong lớp do đó gây khó khăn trong việc xây dựng môi trường lớp học xanh, sạch đẹp, cũng như việc bố trí sắp xếp các góc chơi trong lớp một cách khoa học để giúp trẻ dễ dàng thích nghi với môi trường lớp học. Một số giáo viên mới, chưa linh hoạt, sáng tạo trong công việc. Một số trẻ mới đi học còn nhút nhát, sợngười lạ, chưa tự tin, không dám tham gia hoạt động. Một số trẻ khóc nhiều, chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia hoạt động với bạn. Trẻđược cha mẹ chiều chuộng, bao bọc nhiều, chưa biết cách rèn cho con có những kỹnăng thích nghi và kỹnăng tự phục vụ bản thân. 2.2. Nội dung giải pháp Giải pháp 1: Học tập nâng cao nhận thức về giáo dục kỹnăng thích nghi cho trẻ 4 https://giaoanthpt.com/
Giúp các giáo viên nâng cao nhận thức, hiểu biết, nắm rõ về việc hình thành và nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻởđộ tuổi 25-36 tháng Để thực hiện tốt được giải pháp này, ngay đầu năm tôi cùng các thành viên trong tổ cùng thảo luận, nghiên cứu xây dựng kế hoạch rõ ràng theo từng chủđề. Để từđó có sự chuẩn bị cho lớp học về hình ảnh, đồ dùng, nguyên vật liệu trang trí cho từng mảng tường trong và ngoài lớp học, về cách bố trí, sắp sếp các góc chơi sao cho hợp lý với kỹnăng hoạt động của trẻ. Bản thân tôi luôn học tập và nghiên cứu các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên và “Quy chế nuôi dạy trẻ” đềra để có kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻđược tốt hơn. Luôn tham gia các buổi tập huấn chuyên môn do Phòng, nhà trường tổ chức. Thường xuyên tìm tòi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của việc hình thành và nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ, đưa trẻ vào nề nếp, có những hành vi văn minh, tự phục vụ từ những thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tham quan các lớp, các trường bạn, giáo viên khác để học hỏi thêm kinh nghiệm về việc hình thành kỹnăng thích nghi cho trẻ. Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ gắn với thực tiễn, có tài liệu đồ dùng trực quan sinh động phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học. Tôi luôn tạo cho trẻ tính chủđộng, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện giữa cô với trẻ và giữa trẻ với trẻ. Trong giờ học tôi luôn tạo cơ hội, động viên cho trẻđược nói, được trình bày ý kiến của trẻtrước cô, trước tập thể, nhất là trẻ còn hay rụt rè, khảnăng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹnăng sống cho các em. Đặc biệt tôi luôn là tấm gương sáng về hành vi ứng xử, vềđạo đức, những hành vi văn minh, bảo vệmôi trường cho trẻ noi theo. Qua thời gian thực hiện, bản thân tôi và các giáo viên trong tổđã nắm bắt được việc hình thành và nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻởđộ tuổi 25-36 tháng tốt hơn. Giải pháp 2: Trang trí trong và ngoài lớp học, tạo sự thân thiện, gần gũiđối với trẻ Giúp các giáo viên tạo môi trường trong và ngoài lớp học sạch sẽ, thân thiện gần gũi với trẻ nhằm nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻởđộ tuổi 25-36 tháng. 5 https://giaoanthpt.com/
+ Môi trường bên trong lớp học: Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, khi đến một môi trường mới gặp cô là người lạ, phải xa ba mẹ trẻ sợ hãi và khóc. Vì vậy tôi đã trang trí lớp các mảng tường bằng những hình ảnh có màu sắc nổi bật, tôi sử dụng những nguyên vật liệu khác nhau để trang trí các mảng tường, các góc trong lớp, tạo các mảng tường, các góc trong lớp để kích thích tính tích cực của trẻ. Tất cả những mảng tranh trí tôi bố trí, sắp xếp đểở các vị trí hợp lý cho trẻ dễ thấy, dễ hoạt động với các mảng tường đó. Với màu sắc trang trí hài hòa, đơn giản mà lại lôi cuốn trẻ làm trẻ tập trung vào đó, quên đi nỗi sợ hãi tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái, thân thiện như ởgia đình mình. Tôi trang trí mảng một ngày của bé bằng những hình ảnh, những hoạt động thiết thực ởtrường mầm non. Đó cũng là cách tuyên truyền tốt nhất cho phụ huynh của trẻ biết được các hoạt động của con mình ởtrường Mầm non. Để lôi cuốn thu hút trẻ hoạt động tôi tự mình lựa chọn gam màu phù hợp, cách trang trí khoa học bằng những hình ảnh gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Tôi khuyến khích trẻ cùng cô dán trang trí mảng chủđề, giúp trẻ cảm thấy thoải mái, tự tin về những sản phẩm của mình làm ra, từđó tạo cho trẻ sự phấn khởi, tích cực hoạt động ở trẻ, trẻthích được đi học, và tạo cho trẻ những mối quan hệ thân thiện giữa trẻ với trẻ, giúp trẻ ngày càng thêm gắn bó, gần gũi, đoàn kết với các bạn trong lớp. Hình ảnh góc chủđề cô và trẻ cùng làm bằng các nguyên vật liệu khác nhau 6 https://giaoanthpt.com/
Các góc chơi tôi bố trí, sắp xếp phù hợp, linh hoạt để trẻ dễ lấy, dễ quan sát. Tôi đặt tên các góc đơn giản, dễ hiểu, gần gũi với trẻvà thay đổi nội dung phù hợp với từng chủđề. Các góc có khoảng rộng cách nhau hợp lý để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho trẻ và vận động của trẻ, không che tầm nhìn của trẻ và không cản việc quan sát của giáo viên. Hình ảnh góc thư viện cho trẻ Các đồdùng, đồchơi trong lớp phải đảm bảo an toàn cho trẻ, được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp không xa cách, được sắp đặt vừa tầm với trẻđể trẻ tự lấy, tự cất, tự hoạt động tạo cho trẻ một tâm thế vui vẻ và hứng thú tham gia các hoạt động trong lớp. 7 https://giaoanthpt.com/
Hình ảnh đồchơi góc xây dựng được sắp xếp gọn gàng Sự thân thiện, gần gũi với môi trường trong lớp là bước đầu tiên giúp trẻ nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học. Nếu bước vào một lớp học rất đẹp nhưng trẻ không thấy được sự gần gũi, không dám sờ vào bất kỳ thứ gì, hoặc không được xê dịch mọi thứ thì không thể tạo được môi trường tích cực và thân thiện với trẻ. Vì vậy việc trang trí, sắp xếp các góc làm sao cho trẻ dễ dàng hoạt động cũng là một yếu tố tạo sự gần gũi thân thiện đối với trẻ. + Môi trường bên ngoài lớp học Tôi tận dụng sân trường thoáng mát, sạch sẽ, cây xanh, hoa, những đồ chơi ngoài sântrường để gây hứng thú cho trẻ. Đầu năm cháu khóc nhiều, hay chạy ra khỏi lớp nên trong lớp phải đóng cửa rào làm không khí ngột ngạt, gò bó. Chính vì vậy việc cho cháu xuống sân trường chơi là một điều cần thiết để rèn kỹnăng thích nghi cho trẻ. Cho cháu đi dạo chơi, hít thở không khí trong lành trong sân trường giúp trẻ thoải mái, vui vẻ, các cháu thích thú xuống sân chơi, chơi cùng các bạn với các trò chơi vận động, dân gian, chơi đồchơi dưới sân, chơi với cát nước..., tham quan các lớp học khác để tạo cho trẻ môi trường giao tiếp cởi mở, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với môi trường xung quanh sẽ tạo cơ hội cho trẻđược chia sẻ, giãi bày tâm sự, nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn bè, nhờ vậy mà cô hiểu trẻhơn, trẻ hiểu nhau hơn, hoạt động phối hợp nhịp nhàng hơn nên hiệu quả hoạt động cũng cao hơn, trẻyêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo và bạn bè. Còn một số cháu vẫn còn khóc thì tôi luôn dỗdành, động viên, khuyến khích trẻtham gia các trò chơi cùng cô, cùng bạn. 8 https://giaoanthpt.com/
Hì Hình ảnh cháu chơi dưới sân trường Ngoài ra tôi còn tận dụng góc thiên nhiên của lớp, tạo cho trẻ góc thiên nhiên có nhiều cây xanh, có vườn rau được bố trí phù hợp, sạch sẽđể trẻđược quan sát, khám phá, chỉ cho trẻ biết chăm sóc vườn cây của lớp mình. Tôi hướng dẫn trẻtưới cây, cách chăm sóc cây, không hái hoa, bẻ cành, bỏrác đúng nơi quy định…để gây hứng thú, tạo tâm thế thoải mái cho trẻ. Hình ảnh góc thiên nhiên của bé. Hình ảnh các cháu căm sóc Vườn rau của lớp Trong thực tế lớp tôi do nguồn kinh phí của lớp còn hạn hẹp không đủđể mua các chậu hoa, cây cảnh cho góc thiên nhiên, góc rau xanh của lớp. Do đó 9 https://giaoanthpt.com/
tôi đã vận động các bậc phụ huynh ủng hộ với nhiều loại cây cảnh khác nhau, các loại hạt giống một số loại rau dễ trồng, gần gũi với trẻ, các thùng xốp… sau đó tôi lựa chọn các loại cây đẹp, có màu sắc nổi bật, không có gai, không có độc tốgây thương tích cho trẻ, đảm bảo an toàn cho trẻ khi tiếp xúc với các loại cây đó, trẻ hứng thú tìm tòi, khám phá phát hiện ra những điều mới lạ, trẻ sẽ thích thú đi học, hết khóc và tích cực tham gia vào các hoạt động. Nhờ biết cách trang trí trong và ngoài lớp học, các mảng tường sinh động, nhiều màu sắc, lựa chọn đồchơi phù hợp với trẻ, gây ứng thú cho trẻ mà mỗi ngày đến lớp với trẻ là một ngày vui, trẻ có hứng thú, trẻ ngắm nhìn, thích chơi với các hình ảnh, đồchơi trong và ngoài lớp học, dần dần trẻ sẽ hết khóc, nhanh chóng thích nghi, hòa nhập với cô và các bạn, hứng thú tham gia các hoạt động của lớp. Giải pháp 3: Nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ trong các hoạt động Bồi dưỡng cho trẻ những kỹnăng sống, những thói quen tốt không phải là việc một sớm một chiều mà là cả một quá trình và phải chọn đúng thời điểm thích hợp với độ tuổi của trẻđể bắt đầu mới có kết quả tốt nhất. Với trẻ mầm non, giáo dục kỹnăng sống không thể tách riêng thành một môn học riêng biệt, nó phải được tiến hành thông qua các hoạt động giáo dục khác trong ngày, ở mọi lúc mọi nơi. Người giáo viên cần tìm tòi đổi mới các hình thức tổ chức để mọi kiến thức giáo dục mình muốn truyền tải đến trẻđều nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả. Vì vậy tôi luôn chú ý việc nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ trong các hoạt động. a) Hoạt động đón trẻ Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, trong tuần lễđược ở lại làm quen, tuần đầu làm cho bé sợ hãi và khóc. Lúc này cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy của trẻ. Khi mẹ đưa bé đến lớp những ngày đầu tiên, bé thường ôm chặt lấy mẹ không muốn rời và nhìn xung quanh dò xét. Nếu lúc đó côgiáo đến ôm chầm và bế bé ra khỏi tay mẹ thì bé sẽ rất ghét và đâm ra sợ cô. Chính vì vậy, tôi tiến lại chào hỏi phụ huynh và mỉm cười, hỏi chuyệnvới bé, nói chuyện với mẹ bé. Sau đó tôi bày đồ chơi và tổ chức những trò chơi trong lớpđể gây sự chú ý của trẻ đồng thời quan sát biểu hiện của trẻ. 10 https://giaoanthpt.com/
Trẻ hứng thú tham gia chơi đồ chơi Có những cháu thì tham gia ngay cùng cô, nhưng cũng có bé chỉ ngồi trong lòng mẹ quan sát cô và các bạn, khi cô đưa đồ chơi thì ngồi chơi cùng mẹ…Đối với những trẻ này, tôi phải lại gần, trò chuyện với phụ huynh về trẻ và chơi với cháu nhiều hơn, dần dần trẻ sẽ cảm thấy cô gần gũi hơn, thân thiết hơn. Từ từ trẻ sẽ chơi với cô và theo cô. Khi trẻ bắt đầu bị tôi thu hút thì tôi sẽ làm quen, trò chuyện với trẻtrong vai trò “cô giáo”. Việc làm quen diễn ra một cách tự nhiên, dần dần các cháu không cảm thấy đột ngột, sợ hãi. Chính các cháu này sẽ là những nhân tố tích cực lôi kéo những cháu mới hưởng ứng theo cô sau này. Hình ảnh cô đón cháu vào lớp 11 https://giaoanthpt.com/
Ngoài việc trao đổi với phụ huynh về trẻ, tôi cũng đã trao đổi với các phụ huynh về nội quy của nhóm lớp như: cho bé đi học đều, đúng giờđểbé được tập thể dục sáng, đồng thời đề nghị phụ huynh kết hợp với cô trong việc đưa trẻđi vào nề nếp và thói quen lễ phép cho trẻ. Cô và ba mẹ phải là tấm gương cho trẻ noi theo. Ví dụ: - Khi bé mới vào lớp tôi đã khoanh tay chào ba mẹ, chào bé: phụhuynh cũng khoanh tay chào lại tôi, những hình ảnh này dễ làm cho các cháu bắt chước cử chỉđẹp của người lớn và cháu sẽ làm theo Bên cạnh đó giáo viên cũng phải dung hòa tránh gò ép trẻ làm trẻ không hứng thú khi đến lớp. Cô thường xuyên khuyến khích, động viên để trẻ biết tựđi cất dép, tự lấy ly uống nước, lấy khăn lau mặt… và cùng trẻhướng dẫn bạn để thông qua việc này trẻ sẽ tiếp nhận được nhanh hơn, dễdàng hơn. Cô cũng cần đểý đến những phụhuynh chưa hợp tác, chưa thoải mái việc rèn tính tự lập cho trẻđể trao đổi trong giờđón, tránh phụ huynh thấy không hài lòng khi cô cho con tự phục vụ. Cô gợi mở những câu truyện, sử dụng tranh ảnh để trẻ hứng thú, mạnh dạn trò chuyện giao tiếp cùng cô và các bạn. Khi trò chuyện hoặc chơi cùng với trẻ, tôi thường xưng luôn tên tôi và trẻ thuộc tên tôi rất nhanh. Khi về đến nhà, trẻ luôn miệng nhắc tên cô, cô Thương rửa tay sạch cho con, cô Thương bảođể dép ở nơi này nè, không dược để tay bẩn...” Chính những điều này làm phụ huynh tin tưởng ở tôi nhiều hơn và các cháu cũng thân thiết với tôi hơn. Hình ảnh cháu đã thích nghi với môi trường ở lớp 12 https://giaoanthpt.com/
b) Trong hoạt động học: Trong thời gian đầu tùy theo cá tính của từng trẻ tôi luôn chiều trẻ để trẻ cảm thấy an tâm trong môi trường mới. Tôi có thể đáp ứng những thói quen không đẹp của trẻ như ngồi đưa chân lên ghế bạn khác đang ngồi, tiêu tiểu không gọi cô, bắt cô ẵm bồng… Rồi từ từ sau đó, khi bé quen rồi tôi sẽ cho bé thực hiện các nề nếptrong học tâp: ngồi ngay ngắn, tự lấy và cất đồ dùng của mình, tích cực tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn. Hình ảnh trẻ tham gia các hoạt động học Trong giờ học tôi luôn tạo cơ hội cho trẻđược tham gia, tự lập từ các hoạt động chuẩn bị cùng cô: lấy rổ, tranh ảnh, đồ dùng, kê ghế… rồi đến khi kết thúc 13 https://giaoanthpt.com/
hoạt động trẻ lại cùng cô cất dọn và trẻ biết cất lấy đồdùng, đồchơi đúng nơi quy định. Thông qua các hoạt động học, phim và tranh ảnh trẻđược mở rộng kiến thức, ngoài ra còn cho trẻ tự trải nghiệm, thực hành để trẻđược khắc sâu hơn. c) Hoạt động vui chơi: Hoạt động vui chơi là lúc trẻ thích thú nhất, trẻ dễdàng quên đi nỗi sợ hãi, khi phải đến trường, xa ba mẹ, vui chơi là nơi mà trẻthể hiện cái tôi nhiều nhất, thể hiện vốn kỹnăng sống rõ nét nhất và cũng là môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất. Với trẻở lứa tuổi này, tôi luôn động viên, khuyến khích trẻchơi và chơi cùng với trẻ, khơi gợi cho trẻcách đóng vai và tạo cho trẻ các tình huống để trẻ có thểứng biến và giải quyết vấn đề theo kinh nghiệm riêng của trẻ. Từđó tôi sẽ nắm bắt, điều chỉnh và lên kế hoạch cụ thể và phù hợp hơn để nâng cao khảnăng thích nghi cho trẻ, tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ, thoải mái khi đến trường, trẻ biết chơi cùng bạn cùng cô, biết nhường nhịn khi chơi và biết cất dọn đồdùng đồchơi gọn gàng sau khi chơi xong. Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chếđộ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì đối với trẻchơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục kĩnăng thích nghi cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi trẻ phải giao tiếp với nhau, phải suy nghĩ, nói ra ý tưởng, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. 14 https://giaoanthpt.com/
Hình ảnh trẻchơi ở các góc Thông qua giờchơi, trẻđược đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻđóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có được trẻ thể hiện qua hoạt động vui chơi. Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻđóng vai để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻđã có. Giáo viên và trẻ cùng làm những đồchơi tự tạo phục vụcho các góc chơi. Các góc chơi phải trang trí hoặc có những đồchơi đẹp gây hứng thú trẻ tích cực hoạt động. Trong các buổi dạo chơi, tôi cho trẻ quan sát và đàm thoại về những cây cối, những đồ chơi trong sân trường nhằm khơi gợi hứng thú, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ, đồng thời cung cấp kiến thức cho trẻ về đối tượng giúp trẻ thích được đến trường, thích chơi những đồ chơi dưới sân trường. Tôi tổ chức, động viên trẻ chơi và chơi cùng trẻ những trò chơi dân gian, trò chơi vận động, các trò chơi tự do ở dưới sân trường khiến trẻ thích thú khi chơi, trẻ sẽ hết khóc và tham gia vào giờ chơi cùng cô và các bạn, góp phần nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ 15 https://giaoanthpt.com/
Hình ảnh cháu chơi ngoài trời d) Hoạt động lao động: Thông qua hoạt động lao động cô giáo có thểhướng trẻ vào những thái độ ứng xửvăn hóa: yêu lao động, trân trọng sản phẩm lao động, ….Trẻđược tự tay làm, tận mắt chứng kiến kết quảlao động của mình, không có gì có thể có ý nghĩa giáo dục với trẻhơn như vậy. Mới đầu trẻđi học còn khóc nhiều, chưa chịu làm, lấy đồ dùng của mình. Tôi khuyến khích, động viên trẻ tự lấy đồ dùng của bản thân, khen ngợi khi trẻ tự lấy đồ dùng của mình dần dần hình thành thói quenn tự phục vụ cho trẻ. Khi cho trẻ xuống sân trường, tôi cho trẻ quan sát sân trường có nhiều rác không. Tôi hỏi trẻ có biết vì sao lại như vậy không? Làm thếnào đểsân trường mình sạch đẹp bây giờ. Cô cùng trẻ nhặt rác trong sân trường, trẻ thấy thành quả lao động của mình, sân trường được sạch sẽ, cô khuyến khích, động viên trẻ làm cho trẻ biết yêu quý lao động và sản phẩm của lao động. Hay việc cô cho trẻ vứt rác, phân loại rác, từ những hộp sữa trẻ uống xong, nay được sử dụng tạo thành những đồchơi quanh bé, cô nên cho trẻ cùng làm những đồdùng đồchơi tự tạo với cô, khiến trẻ yêu quý thành quả của lao động hơn. 16 https://giaoanthpt.com/
Hoạt động lao động còn giúp trẻ học được tính kiên trì, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụđược giao. Từđó trẻthích được lao động và trân trọng thành quảlao đông không chỉ của mình mà của các bạn. e) Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh: Trẻ mới trong tuần đầu đến trường thường hay sợ và khóc, có một số cháu trong tuần đầu tôi chiều theo sở thích của các cháu, không ép các cháu ăn, chỉ dỗ dành, động viên các cháu ăn. Khi các cháu ăn hết thì khen ngợi các cháu. Có một sốcháu ăn ít thì tăng cường thêm sữa cho cháu, khi các cháu đã thích nghi với bữa ăn ở lớp thì khuyến khích cho cháu ăn hết xuất, tựxúc ăn và rèn nề nếp khi ăn cho các cháu, biết sử dụng các đồ dùng phục vụăn uống, ăn uống gọn gàng không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ, biết mời trước khi ăn, trong khi ăn không nói chuyện…. Trong tuần đầu đi học tôi đáp ứng một số phụ huynh có nhu cầu đưa con về buổi trưa cho cháu làm quen dần rồi để cháu ngủtrưa lại ởtrường. Khi các cháu ngủtrưa tôi luôn chú ý đến giấc ngủ của các cháu. Trẻ mới đi học hay bị giật mình, khóc tôi đến vỗ về, dỗ dành và an ủi cháu, dỗ cháu ngủ lại. Có một số cháu buổi trưa khóc, khó ngủ tôi cho nằm gần cô, vỗ về dỗ dành cháu, ru cháu ngủ. Dần dần cháu sẽ có kỹnăng thích nghi được với môi trường lớp học Ngoài việc cho trẻ biết tầm quan trọng của ăn uống đầy đủ, tôi dạy trẻ không được lãng phí đồăn, yêu quý sản phẩm lao động. Trong các bữa ăn tôi có thể giáo dục trẻ vệsinh, ăn uống văn minh: mời trước khi ăn, khi đang nhai không nói chuyện, ngồi ngay ngắn khi ăn không đùa nghịch, giờăn biết tựxúc ăn.... Các cô giáo đừng ngại trẻlàm lâu, đừng ngại sai vặt trẻđó chính là cơ hội học hỏi của trẻ và nâng cao kỹnăng thích nghi của trẻ với môi trường lớp học. Những điều này muốn đạt hiệu quả cao, giáo viên không bao giờ quên thường xuyên trao đổi với phụ huynh, phối hợp cùng phụhuynh để có thể cho trẻthường xuyên thực hành các thói quen vệ sinh, kỹnăng ăn uống, chào hỏi, kỹ năng tự phục vụ.., hay cho trẻ tự giải quyết các vấn đề của riêng mình để trẻ nâng cao được kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học của bản thân Với cách dạy trẻ, cho trẻchơi bằng nhiều hình thức khác nhau, mọi lúc mọi nơi bằng các bài thơ, bài hát, câu chuyện, các trò chơiđể trẻ thấy thích thú, vui vẻkhi được đến trường, nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ. Đặc biệt với hình thức đặt ra các tình huống cho trẻđược đàm thoại, nói lên cách xử lý của mình sau đó cô sẽ giúp trẻ tổng hợp lại và tìm ra phương pháp tối ưu nhất. Chính hình thức này giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ. Đó 17 https://giaoanthpt.com/
cũng chính là một kỹnăng sống rất cần thiết cho trẻ thích nghi trong môi trường lớp học cũng như môi trường xã hội sau này. Giải pháp 4: Công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh và học sinh. Ngày nay nhiều phụhuynh quan tâm đến việc giáo dục kĩnăng sống cho con, tuy nhiên không phải phụhuynh nào cũng hiểu tầm quan trọng của việc học kỹnăng sống và tại sao trẻ lại cần được học kỹnăng sống. Ở lứa tuổi mầm non, việc phát triển kỹnăng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng đặc biệt là kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học, cho nên việc giúp phụ huynh hiểu rõ và phối hợp với cô trong việc nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ là một việc rất quan trọng. Có những phụ huynh nuông chiều con thái quá, hay tỏ ý nhờ vả cô nuông chiều con ngay trước mặt trẻ, điều đó làm cho trẻ tự thấy mình được đặt ra yêu sách, khóc quấy, không chịu đi học, sợngười lạ. Vì vậy mọi mối quan hệứng xử xung quanh trẻ phải luôn là tấm gương cho trẻđể trẻ học tập từng lời ăn tiếng nói, học tập cách sống, cách cư xử. Cô và phụ huynh tránh những lời nói thiếu hợp tác khi có trẻ, hãy luôn cho trẻ thấy cả cô và mẹđều yêu thương trẻ và luôn thống nhất mọi nguyên tắc trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, tránh những yêu cầu trái chiều, luôn tỏ ra thân thiện, chào hỏi để trẻ học theo, từđó trẻ làm quen với lớp học nhanh hơn, không sợhãi khi đến lớp. Giáo dục kỹnăng sống cho trẻ không thực hiện đơn lẻởtrường hay ở nhà, đó phải là sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường mọi lúc, mọi nơi. Là sự thường xuyên cho trẻ trải nghiệm trong các môi trường khác nhau, để trẻ tự giải quyết các vấn đề mình gặp phải. Để làm tốt được những điều này thì cảgia đình và nhà trường cùng thực hiện. Không phải phụhuynh nào cũng hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, vì thế công tác tuyên truyền của giáo viên tới phụ huynh phải được tiến hành sớm từđầu năm, chú trọng đến việc trao đổi với phụhuynh để cùng phối hợp về việc giáo dục kỹnăng sống cho trẻ, đặc biệt là giúp trẻ nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ. Phụhuynh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp trẻ trau dồi kỹ năng thích nghi. Tạo môi trường phù hợp cho con, tạo điều kiện cho con hòa đồng với những người xung quanh, cho con cơ hội, khuyến khích con tương tác, giao tiếp với bạn bè, thích nghi với môi trường mới ngoài gia đình là những việc không thể thiếu. Chình vì vậy giáo viên cần phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, khuyến khích phụhuynh thường xuên trao đổi, trò chuyện và chơi cùng trẻ, đưa 18 https://giaoanthpt.com/
trẻđi chơi, để trẻđược giao tiếp với nhiều người và tiếp xúc với nhiều môi trường khác nhau, giúp trẻ mau chóng thích nghi. Cô sưu tầm tranh ảnh bài báo về tầm quan trọng của giáo dục kỹnăng thích nghi với môi trường cho trẻ dán ởgóc “phụ huynh cần biết”, kêu gọi phụ huynh ủng hộ những tranh ảnh, sách báo và đồchơi cho trẻ. Giới thiệu với phụ huynh các đầu sách hay về cách dạy con tự lập, cách rèn thói quen tốt cho trẻ hay các bài viết của các nhà tâm lý về lứa tuổi để phụ huynh hiểu hơn về giáo dục lứa tuổi, về con em mình. Có những bài viết về kỹnăng sống với tương lai của trẻ, vai trò của gia đình trong việc giáo dục kỹnăng sống của trẻ… được đọc phát thanh trên loa phát thanh của trường. Phối hợp cùng các đồng nghiệp tuyên truyền tới từng phụ huynh. Việc dạy trẻ những kỹnăng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh cho rằng con mình còn quá bé để hiểu được những điều đó cũng như nghĩ rằng trẻ vẫn được sống trong sự bao bọc, bảo vệ tuyệt đối của bố mẹ. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào cha mẹcũng ở bên con khi có tình huống xấu. Chính vì vậy, người lớn phải khéo léo, tế nhị kể cho con nghe những tình huống xấu có thể gây hại cho bé và giúp con biết cần xửlý như thế nào giúp trẻ thích nghi nhanh hơn. Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ: Tin tưởng vào trẻvà năng lực của trẻ; tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình. Phụhuynh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp trẻ trau dồi, củng cố các kiến thức và kỹnăng. Chính vì vậy là người giáo viên tôi luôn phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, khuyến khích phụhuynh thường xuyên trao đổi, trò chuyện và chơi cùng trẻ, đưa trẻđi chơi, để trẻđược giao tiếp với nhiều người và tiếp xúc với nhiều môi trường khác nhau qua đó kết hợp giáo dục cho trẻ biết yêu quý thiên nhiên, biết bảo vệ các sản phẩm của trẻ hoặc người khác tạo ra, trẻ biết cách chăm sóc cây xanh, không hái hoa, bứt lá, bẻ cành, bỏ rác đúngnơi quy định, có những hành động đúng đắn, lịch sự khi ở nhà, ở lớp cũng như ở ngoài xã hội để giúp trẻ nâng cao kỹnăng thích nghi hơn. Trẻ con vốn luôn hiếu động, hiếu kỳ và muốn khám phá những điều mới lạ. Trong cuộc sống ngày nay, khi xã hội ngày càng hiện đại, càng phát triển thì những mối nguy hiểm cho trẻ con ngày càng nhiều. Những nguy hiểm có thể xảy ra với trẻ tiềm ẩn không chỉởgia đình, ởtrường học, ngoài đường mà còn ở 19 https://giaoanthpt.com/
bất kỳđâu trong cuộc sống này. Đa phần các bậc cha mẹđều ý thức được điều này, nhưng không phải bậc cha mẹnào cũng có phương pháp dạy con những kỹ năng thích nghi, bảo vệ bản thân đúng đắn. Sự lựa chọn thường gặp của phụ huynh đó là tìm cách nghiêm cấm con tiếp xúc với các rủi ro. Việc chỉ nghiêm cấm mà không giáo dục, trau dồi các kỹnăng bảo vệ bản thân càng kích thích tính tò mò, muốn khám phá trong trẻ và không mang lại nhiều tác dụng. Chính vì vậy tôi đã tuyên truyền, trao đổi với phụ huynh những biện pháp cần thiết để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân mình trước những nguy hiểm từđó giúp trẻ hình thành thói quen và kỹnăng cần thiết. Ngoài ra tuyên truyền cho cha mẹ biết cũng cần dạy cho trẻ biết những mối nguy hiểm và kỹnăng thích nghi, ứng phó với nguy hiểm mà trẻ có thể gặp phải trong gia đình, ởtrường học và ngoài xã hội phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Ngoài việc trao đổi kiến thức về việc giáo dục và nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ, tôi còn sưu tầm tranh ảnh bài, kêu gọi phụ huynh ủng hộ những tranh ảnh, sách báo đồchơi cho trẻ. Vận động phụhuynh đóng góp, ủng hộ cây xanh, hạt giống một số loại rau, thùng xốp, chậu… để tạo góc cây xanh, góc rau xanh cho trẻ góp phần làm xanh hóa lớp học cho trẻ. Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng: Giáo dục kỹnăng sống là giúp trẻnâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ trẻ. Bên cạnh đó, tôi yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ: Tin tưởng vào trẻvà năng lực của trẻ; tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình. Hàng ngày, hàng tuần tôi luôn tranh thủ thời gian trao đổi với phụ huynh những gì trẻlàm được và chưa làm được để cùng tìm ra nguyên nhân và cách nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ tốt nhất. Nhờthường xuyên tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, các bậc phụ huynh nắm rõ hơn về tầm quan trọng của việc hình thành và nâng cao kỹnăng thích nghi với trường lớp mầm non cho trẻ 25-36 tháng, nhiệt tình phối hợp cùng cô nhằm nâng cao kỹnăng thích nghi với trường lớp mầm non cho trẻ 3. Hiệu quả giải pháp 3.1. Thời gian áp dụng của giải pháp Giải pháp được áp dụng tại trường Mầm non phường 3, năm học 2017- 2019. 20 https://giaoanthpt.com/
3.2. Hiệu quả áp dụng: + Đối với giáo viên: Hiểu và có kiến thức sâu hơn về việc rèn kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng tuổi. + Đối với trẻ: 85% trẻ hết khóc trong 2 tuần đầu, trẻ tích cực hứng thú tham gia vào các hoạt động ở trong lớp. Đặc biệt trẻ rất mạnh dạn, tự tin giao tiếp trước mọi người, cháu tự lập, tự phục vụ bản thân. + Đối với phụ huynh: nhiều phụ huynh có ý thức hơn về việc rèn kỹnăng sống co trẻ. Các bậc phụ huynh hiểu biết hơn về lợi ích của việc rèn kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng tuổi trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Qua những biện pháp tôi nghiên cứu và áp dụng vào lớp mình, chất lượng vềchăm sóc giáo dục trẻ lớp tôi tăng lên rõ rệt. 3.3. Khảnăng triển khai, áp dụng của giải pháp: Đềtài được phổ biến, áp dụng ởtrường Mầm non phường 3. Ngoài ra, đề tài còn triển khai áp dụng được cho các trường Mầm non, trong tỉnh có cùng điều kiện. 3.4. Bài học kinh nghiệm: Với những biện pháp và kết quả nêu trên bản thân tôi tự rút ra những bài học kinh nghiệm sau: Muốn cho trẻ có kỹnăng thích nghi với lớp học, trẻ hết khóc, tham gia các hoạt động tích cực và có kết quảcao thì môi trường đó phải có nhiều những đồdùng, đồchơi đẹp mắt, mới lạthu hút được trẻ, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của trẻ. Muốn rèn kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng tuổi, giúp cho trẻ hoạt động tích cực thì giáo viên phải trang trí xung quanh môi trường lớp bằng các hình ảnh gần gũi với cuộc sống thường ngày của trẻ và khuyến khích trẻ trang trí ở các mảng tường, ởcác góc chơi cùng cô, phải thường xuyên vệsinh môi trường lớp sạch sẽ, thoáng mát, cho trẻhưởng thụ không khí trong lành như ởchính gia đình mình vậy. Luôn nghiên cứutham khảo tài liệu, thường xuyên học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững tân sinh lý của trẻởđộ tuổi này, các phương pháp, áp dụng công nghệ thông tin, hình thức dạy trẻ linh hoạt sáng tạo sử dụng các thủ thuật gây hứng thú khuyến khích cho trẻ hoạt động. Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, mẫu mực trong mọi hoạt động: Lời ăn, tiếng nói, việc làm. Cô yêu nghề mến trẻ tận tâm với công việc của 21 https://giaoanthpt.com/
mình. Luôn tìm tòi nghiên cứu các phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp và đạt kết quả cao. Thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động cho trẻ và thực hiện tốt các chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ, luôn luôn tìm tòi những cái mới đưa vào tổ chức các hoạt động để tạo sự hứng thú cho trẻ. Giáo dục cho trẻở mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá biệt, không phân biệt giữa các trẻ. Xuất phát từ khảnăng của trẻ giáo viên khuyến khích trẻ thực hiện nhiệm vụ học tập, không áp đặt gò bó đối với trẻ, tạo cho trẻ một tâm lí thoải mái, tích cực tham gia vào các hoạt động. Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp. Làm tốt công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải, cô giáo và cha mẹ phải luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo từ lời nói đến việc làm, động viên khuyến khích trẻ kịp thời, đối xử công bằng với trẻ. Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và đã giúp phụ huynh hiểu rằng trẻ học là phải học cả đời. Sưu tầm, làm đồ dùng, dụng cụ, đồchơi sáng tạo cho trẻ hoạt động từ một số nguyên liệu sẵn có trong thiên nhiên. Tạo góc mở cho trẻ hoạt động thường xuyên. Xây dựng thư viện của lớp, tạo góc cây xanh, góc rau xanh cho trẻ. Tổ chức tốt các hoạt động văn nghệ chào mừng ngày lễ hội giúp trẻ tự tin mạnh dạn, hồn nhiên, có cảm nhận, sáng tạo phong cách biểu diễn khi thể hiện các tác phẩm nghệ thuật. Cô giáo phải có lòng nhiệt tình, tình thương yêu trẻ, gợi ý động viên để trẻ phát huy khảnăng của mình. 4. Kết luận và đề xuất kiến nghị 4.1. Kết luận 22 https://giaoanthpt.com/
Trường học là cái nôi đầu tiên cho trẻ em bắt đầu cuộc sống và lao động. Trong nhà trường, trẻ em cần phải tiếp thu những tri thức khoa học một cách có hệ thống, những kỹnăng, kỹ xảo cần thiết để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp ban đầu của con người mới. Môi trường giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người thông qua các mối quan hệ xã hội đa dạng. Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước chính vì vậy phải chăm sóc giáo dục thật tốt ngay từ khi trẻ còn ởđộ tuổi mầm non. Việc nâng nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25- 36 tháng giúp trẻ mau chóng hòa nhập với lớp học, hòa đồng với cô, với các bạn, tích cực tham gia các học động, tạo cơ hội an toàn cho trẻvui chơi, học tập mà còn là môi trường sống lành mạnh, nơi đó trẻ phải được đối xử công bằng, được quan tâm chăm sóc, giáo dục, được bảo vệ và tích cực tham gia vào quá trình học tập để phát triển nhận thức một cách toàn diện.. Chính vì vậy việc nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp học cho trẻ 25-36 tháng rất quan trọng, và cần thiết. Đềtài đã đưa ra các biện pháp mới nhằm nâng cao kỹnăng thích nghi với môi trường lớp mầm non cho trẻ 25-36 tháng như: trang trí môi trường trong và ngoài lớp tạo sự thân thiện gần gũi và an toàn cho trẻ, tạo tâm thế thoải mái, giúp trẻ bớt sợhãi, thích được đến lớp, và hứng thú tham gia vào các hoạt động cùng cô và các bạn. Nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày, tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc hình thành và nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ. Các biện pháp này đã được tôi triển khai áp dụng tại nhà trường, các giáo viên của các trường mầm non đều có thể dễ dàng vận dụng và sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao kỹnăng thích nghi cho trẻ 4.2. Đề xuất, kiến nghị. * Đề xuất Nhà trường: Thường xuyên tổ chức cho giáo viên được tham quan, học hỏi kinh nghiệm ởcác trường bạn tại các tỉnh lân cận. Thay đổi hình thức tổ chức các hoạt động lễ hội, tổ chức nhiều hội thi có phối hợp phụ huynh và học sinh cùng tham gia để trẻcó động lực, nâng cao kỹ năng thích nghi cho trẻ * Kiến nghị: không. 23 https://giaoanthpt.com/
HỘI ĐỒNG CHẤM BCSK TRƯỜNG MẤM NON PHƯỜNG 3 Điểm chấm:..............Xếp loại: ............ Vũng tàu, ngày……tháng…năm .......... CHỦ TỊCH (Ký tên, đóng dấu) Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân tôi viết, không sao chép nội dung của người khác Vũng tàu, ngày 25 tháng 12 năm 2018 Người viết (Ký, ghi rõ họ tên) Nguyễn ThịHoài Thương HỘI ĐỒNG CHẤM BCSK NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐVŨNG TÀU Điểm chấm: ………… Xếp loại:…………… Vũng Tàu, ngày … tháng … năm 201… CHỦ TỊCH (Ký tên, đóng dấu) 24 https://giaoanthpt.com/
HỘI ĐỒNG CHẤM BCKN NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH BR-VT Điểm chấm: ………… Xếp loại:…………… ……, ngày … tháng … năm 201… CHỦ TỊCH (Ký tên, đóng dấu) 25 https://giaoanthpt.com/
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Tạp chí giáo dục mầm non 2.Chương trình giáo dục Mầm non. 3.Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục Mầm non Nhà trẻ (3-36 tháng tuổi) 4.Tâm lý giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non. 5.Dựa vào kinh nghiệm thực tiễn. 6.Qua sách báo và thông tin trên mạng 26 https://giaoanthpt.com/